Cú sốc và cơ hội đối với kinh tế Đông Nam Á RSS Thị trường Cú sốc và cơ hội đối với kinh tế Đông Nam Á LÊ DƯƠNG 13, Tháng 08, 2022 | 14:09 Trong khi khu vực Đông Nam Á đang phải hứng chịu nhiều cú sốc, các cơ hội mới cũng đang xuất hiện. Việc tận dụng những cơ hội đó đòi hỏi phải thay đổi chính sách cũng như tăng cường hợp tác. Cuộc sống du học sinh tại Nhật Bản như một giấc mơ. Trong các nhóm du học sinh tại Nhật Bản, chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng: "Du học Nhật Bản quả là một giấc mơ. Tuy nhiên, việc đi du học Nhật Bản là do chính bạn quyết định. Nhiều người thừa nhận rằng Thời gian qua, tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường, trong đó nhiều yếu tố bất lợi đến kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam trong cả trước mắt và lâu dài. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, sâu sắc. Xung đột Nga - Ucraina chưa có dấu hiệu kết thúc. HUỲNH HẢI. (PLO)- Nhóm thanh niên cầm dao, kiếm, rựa xông vào quán karaoke ở TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, hỗn chiến với nhóm đối thủ bên trong quán. Ngày 19-10, lãnh đạo Công an TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, cho biết đang tích cực điều tra, xác minh hai nhóm thanh niên hỗn chiến Thời sự hôm nay - Tin tức Việt Nam mới nhất 24 giờ trong ngày. Thời sự biển Đông, bản tin thời sự nóng online trong nước cập nhật mới nhất 24h Vượt sóng lớn đến với chiến sĩ Nhà giàn DK1/10 21:48 27/09/2022 1. Tổ quốc, ở Trường Sa Đà Nẵng làm gì để khôi phục Họ cũng cần tránh trở nên biếng nhác và kỳ vọng cuộc sống sẽ dễ dàng; đồng thời họ phải nhận ra tầm quan trọng của việc phát triển tinh thần kỷ luật bản thân để vượt qua sự u sầu và cảm giác bất an. * HƯỚNG PHÁT TRIỂN Người Số 10 có xu hướng dễ lạc lối 05:38 07/09/2022. (VietQ.vn) - Việc tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody's nâng hạng hệ số tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức Ba2 phản ánh sức mạnh kinh tế ngày càng được tăng cường và khả năng chống chịu của Việt Nam trước các cú sốc vĩ mô bên ngoài. Chia sẻ. AnYP2. Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text Ebook Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam Phần 2 Phần II Nhữmg thách thức có tính thời đại CHƯƠNG 7 Nguy cơ chưa giàu đã già C ho đến nay, vấn đề rút ngắn khoảng cách phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu với các nước chung quanh đã được bàn đến nhiều. Nhưng một vấn đề khác ít được nhận diện, vì diễn tiến âm thầm, chậm rãi, là sự thay đổi của cơ cấu dân số theo huớng lão hóa. Vấn đề này diễn ra chậm chạp nhưng khắc nghiệt hơn vì khi đã thành hiện thực thì khó có thể đối phó được nữa. Trước giai đoạn lão hóa là thời đại dân số vàng. Giai đoạn này nếu không có chiến lược, chính sách phát triển nhanh để đất nước giàu lên trước khi cơ cấu dân số thay đổi thì chắc chắn sẽ trực diện với bi kịch chưa giàu đã già. Việt Nam đang đứng trước thách thức này. I. Giai đoạn dân số vàng đến và đi như thế nào? Thông thường sự thay đổi dân số của một nước có bốn giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, tốc độ sinh lớn và tốc độ tử cũng cao nên dân số hầu như không tăng hay tăng rất chậm. Vào giai đoạn hai, tốc độ tử giảm nhưng tốc độ sinh tiếp tục cao nên dân số tăng nhanh. Đặc tính của giai đoạn này là tỉ lệ dân số trẻ dưới 15 tuổi rất cao. Do kinh tế chưa phát triển, thu nhập đầu người rất thấp, các nước phải kế hoạch hóa gia đình để dân số không tăng nhanh mới có thể tích lũy để khởi động quá trình phát triển. Sang giai đoạn thứ ba, tốc độ sinh giảm và dân số tăng ít. Số người sinh trong giai đoạn 2 trước đó nay trở thành lực lượng lao động. Trong giai đoạn này, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động 15-65 tuổi rất cao trong khi tỉ lệ của số người sống phụ thuộc thấp vì tỉ lệ dân số trẻ 0- 14 tuổi thấp, và tỉ lệ của người già trên 65 tuổi cũng chưa cao. Đây là giai đoạn lí tưởng để kinh tế phát triển nên được gọi là món quà tặng về dân số demographic gift hoặc demographic bonus, hoặc có thể gọi đó là cơ cấu dân số vàng. Đến giai đoạn thứ tư, dân số vàng qua đi, bắt đầu giai đoạn dân số ngày càng lão hóa tỉ lệ người cao tuổi, trên 65, tăng cao. Lúc này tỉ lệ của số người trong độ tuổi lao động giảm dần và số người sống phụ thuộc nhìn toàn cục đông, gánh nặng phúc lợi xã hội đè trên vai người trong tuổi lao động. Do sự thay đổi có tính quy luật của cơ cấu dân số như vậy, con đường phát triển đúng đắn nhất của một nước là từ giai đoạn 2 phải chuẩn bị các tiền đề để phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 3, chẳng hạn phải nhanh chóng phổ cập giáo dục cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, hoàn thiện hành lang pháp lí. Sang giai đoạn 3 cần có chính sách toàn dụng lao động, phát huy lợi thế so sánh là những ngành dùng nhiều lao động. Giai đoạn này khá dài ở Việt Nam khoảng 50 năm như sẽ thấy dưới đây nên cần quan tâm đẩy mạnh giáo dục ở các bậc cao hơn để từng bước chuyển dịch cơ cấu lợi thế so sánh từ các ngành dùng nhiều lao động giản đơn sang các ngành mà hàm lượng lao động có kĩ năng cao. Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị các tiền đề để đón giai đoạn 4 một cách hiệu quả, chẳng hạn phải chuẩn bị chế độ phúc lợi cho người cao tuổi, chấn hưng nghiên cứu và phổ cập khoa học, công nghệ để tăng năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên cao hơn nữa, và như thế kinh tế mới tiếp tục phát triển khi tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động giảm. II. Việt Nam đang ở đâu trên các bậc thang cơ cấu dân số? Đầu tháng 11 năm 2013, người thứ 90 triệu tại Việt Nam ra đời. Theo dự báo của Liên Hiệp Quốc, dân số Việt Nam sẽ đạt 100 triệu trong nửa sau thập niên 2020, đạt đỉnh cao khoảng 105 triệu vào năm 2040 và giảm sau đó. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 14 trong những nước đông dân nhất thế giới. Trên thế giới hiếm có một nước như Việt Nam vừa đông dân lại vừa có sự thống nhất cao về văn hóa, ngôn ngữ. Nếu có thể chế, chiến lược, chính sách tốt, Việt Nam chắc chắn sẽ thành một nước lớn, giàu và mạnh. Tỉ lệ của dân số Việt Nam trong độ tuổi lao động bắt đầu tăng vào khoảng năm 1970 độ 51%, đạt đỉnh cao 71% khoảng năm 2020. Tỉ lệ của dân số sống phụ thuộc trên dân số lao động bắt đầu giảm cũng từ khoảng năm 1970 và đến điểm đáy trong khoảng năm 2020, từ khoảng năm 2020 thì tăng trở lại. Do đó có thể nói giai đoạn dân số vàng của Việt Nam là từ khoảng năm 1970 đến khoảng năm 2020 độ 50 năm. Nhìn sự thay đổi cơ cấu dân số như thế, nhất là thấy vị trí của giai đoạn dân số vàng trong tiến trình thay đổi đó, ta không thể không giật mình với sự tiếc nuối. Nhìn lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn dân số vàng 1970-2020, ta thấy Việt Nam đã mất phần lớn cơ hội. Giai đoạn còn chiến tranh 1970-75 và thời trước Đổi mới 1975-85 xem như ta đã mất hầu như tất cả trong ý nghĩa không tận dụng cơ cấu dân số vàng để phát triển. 10 năm đầu Đổi mới 1986-95, ngoài việc phục hồi sản xuất nông nghiệp, Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu xây dựng các tiền đề về thể chế kinh tế thị trường, về hội nhập với thế giới. Khoảng 10 năm tiếp theo 1995-2005, kinh tế tương đối phát triển nhưng chưa mạnh mẽ trung bình mỗi năm cũng chỉ 7-8%, so với 9-10% của nhiều nước Á châu trong giai đoạn dân số vàng và chất lượng phát triển về môi trường, phân phối thu nhập, cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Còn giai đoạn vừa qua 2006-2015, tốc độ phát triển giảm còn trên dưới 5,5% và kém hiệu suất. Việt Nam đang loay hoay đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc kinh tế nhưng các nỗ lực này đang tiến triển rất chậm. Khảo sát ở trên cho thấy Việt Nam chỉ còn độ năm, sáu năm nữa là chấm dứt giai đoạn dân số vàng. Dự báo về dân số có thể chưa chính xác nhưng khuynh hướng nói trên có tính quy luật và sự sai biệt các năm không lớn. Tính toán của Oizumi 2007 như trong Bảng 7-1 chẳng hạn cho thấy một biên độ thời gian năm năm đánh dấu các giai đoạn thay đổi của cơ cấu dân số. Nhưng so với trình độ phát triển của Việt Nam hiện nay và so với thời gian đã mất thì dù giai đoạn dân số vàng của Việt Nam chấm dứt trễ hơn thời điểm khảo sát ở Bảng 7-1 2020-25, chẳng hạn năm 2030 hay xa hơn, thì vấn đề cấp bách của Việt Nam cũng không thay đổi. Việt Nam chỉ còn 10 hoặc nhiều lắm là 15 năm trước khi giai đoạn cơ cấu dân số vàng chấm dứt. Bảng 7-1 cho thấy thời điểm bắt đầu và chấm dứt giai đoạn dân số vàng giữa các nước Á châu không cách biệt nhiều. Chẳng hạn giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan chỉ cách nhau độ 10 năm. Nhưng trình độ phát triển thì cách xa nhiều. Đây là một thách thức, một vấn nạn của nước đi sau mà phát triển chậm. Bảng 7-2 cho thấy khi giai đoạn dân số vàng chấm dứt, thu nhập đầu người tính theo giá cố định năm 2005 của Nhật là USD, Hàn Quốc là USD còn Thái Lan và Trung Quốc chỉ có độ USD. Nhật và Hàn Quốc phát triển nhanh trong giai đoạn dân số vàng nên khi bước vào giai đoạn dân số lão hóa họ đã giàu. Trung Quốc và Thái Lan mới trung lưu thì đã sắp già. Họ phải cố gắng vượt bậc trong giai đoạn sau mới giải quyết được các vấn đề trong một xã hội lão hóa. Còn Việt Nam? GDP đầu người năm 2013 mới độ USD nếu tính theo giá cố định năm 2005 thì độ 930 USD vào năm 2012. Từ mức cơ bản rất thấp này, khi hết giai đoạn dân số vàng, thu nhập đầu người sẽ là bao nhiêu? Nếu chọn năm 2020 làm mốc đánh dấu chấm dứt giai đoạn dân số vàng và thử đưa ra các kịch bản phát triển Bảng 7-2 ta thấy dù trong kịch bản tốt từ nay đến năm 2020 thu nhập đầu người phát triển trung bình mỗi năm 7%, tức kinh tế phát triển độ 8%, GDP đầu người theo giá 2005 vào năm 2020 chỉ có USD. Nếu dời mốc đến năm 2025 chẳng hạn, con số đó cũng chỉ tăng lên được độ USD, bằng 1/2 mức tương đương của Trung Quốc và Thái Lan. Thay lời kết Phân tích ở trên cho thấy Việt Nam đang đứng trước một thách thức vô cùng to lớn, đó là nguy cơ chưa giàu đã già. Để đối phó với thực trạng này đòi hỏi nỗ lực phi thường của những người có trách nhiệm hiện nay. Thời gian không còn bao nhiêu nữa. Con đường duy nhất để làm giảm nguy cơ "chưa giàu đã già" là phải khẩn trương cải cách toàn diện thể chế để động viên các nguồn lực như tư bản, đất đai, lao động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhờ đó sớm bước vào giai đoạn phát triển cao, bền vững. Chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc các lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng nhìn chung là đúng hướng nhưng vấn đề là phải được nhanh chóng thực hiện và thực hiện một cách triệt để. Ngoài ra, còn ba vấn đề nữa. Thứ nhất là vấn đề sở hữu đất đai và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Phải có phân tích và kết luận về vấn đề liên quan giữa sở hữu và sử dụng hiệu quả ruộng đất, từ đó đưa ra cải cách phục vụ nhu cầu phát triển nhanh, bền vững. Thứ hai, không chống được tham nhũng thì cũng không động viên được các nguồn lực và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu suất. Thứ ba, chấn hưng giáo dục, khoa học, công nghệ là tiền đề để phát triển nhanh, bền vững trong dài hạn. Những yêu cầu cải cách này hiện nay gặp nhiều khó khăn. Nhưng sự thay đổi dân số cho thấy không còn thời gian để chờ đợi nữa. Sự cam kết trách nhiệm chính trị của những người lãnh đạo bây giờ rất cần thiết. Phụ lục Chương 7 CHƯƠNG 8 FDI và nguy cơ phân hóa kinh tế Việt Nam N gày nay nhiều nước đi sau xem đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là yếu tố quyết định của thành quả phát triển, do đó có chính sách tranh thủ FDI và thậm chí xem sự tồn tại của FDI là một hiện tượng tự nhiên, một yếu tố giống như các yếu tố khác của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu hiểu lịch sử và lí luận của sự quan hệ giữa FDI và phát triển kinh tế, ta sẽ thấy việc tiếp nhận FDI là cả một nghệ thuật về chiến lược, chính sách, đòi hỏi năng lực và tinh thần dân tộc của lãnh đạo, của quan chức để tranh thủ được nguồn lực của nước ngoài nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa mà kinh tế không bị chi phối bởi các công ti đa quốc gia Multinational Corporations, MNCs, không bị phân hóa thành hai khu vực độc lập của tư bản trong và ngoài nước. Trong việc tiếp nhận FDI nhiều khi xảy ra xung đột giữa lợi ích quốc gia của nước cần FDI và chiến lược kinh doanh toàn cầu của MNCs, và lợi ích quốc gia tùy thuộc sự khôn ngoan và năng lực của lãnh đạo, của quan chức trong việc tăng khả năng thương lượng bargaining of power đối với MNCs. 1. Dùng FDI như thế nào? Đối với các nước đi sau, tận dụng được nguồn lực từ các nước tiên tiến có thể rút ngắn khoảng cách phát triển trong thời gian ngắn. Nguồn lực đó có thể chia thành ba yếu tố là tư bản K, công nghệ T và tri thức quản lí, bí quyết kinh doanh M. FDI là hình thái mà cả ba yếu tố ấy đi chung với nhau nhưng K và T có thể được du nhập qua các kênh khác chẳng hạn К du nhập bằng vay thương mại hay với các điều kiện được ưu đãi, T du nhập theo hợp đồng công nghệ, Từ thập niên 1970 trở về trước, trong bối cảnh thế giới còn nói về chủ nghĩa thực dân mới, các nước đi sau thường lo ngại MNCs chi phối kinh tế nên không tích cực du nhập FDI hoặc du nhập nhưng kèm theo các điều kiện nhằm hạn chế hoạt động của MNCs. Chẳng hạn chỉ cho phép MNCs đến đầu tư theo hình thức liên doanh, trong đó nước ngoài chỉ được quyền sở hữu dưới 49% vốn điều lệ, và phải mua vật liệu, linh kiện và các sản phẩm trung gian khác sản xuất tại bản xứ điều kiện về local contents. Các trường hợp ngoại lệ thường chỉ áp dụng cho các dự án FDI xuất khẩu 100% thành phẩm. Nhật Bản và Hàn Quốc ngày nay là những nước đi đầu tư ra nước ngoài nhiều nhưng trong quá trình phát triển của mình thì họ rất lo ngại MNCs chi phối kinh tế. Nhật Bản có chính sách không du nhập FDI, chủ trương chỉ du nhập T qua hình thái hợp đồng công nghệ và công nghiệp hóa bằng к và M trong nước. Nhưng từ khi gia nhập OECD, năm 1964, họ bị bắt buộc phải cho nước ngoài đến đầu tư. Để đối phó hiệu quả với tình hình mới, Nhật đã chuẩn bị từ đầu thập niên 1960 một chương trình mở cửa từng bước. Trước hết họ xin hoãn ba năm, cho đến năm 1967 mới thực hiện nghĩa vụ cho MNCs đến đầu tư và từ năm 1967 đến 1975 đặt ra năm giai đoạn cho phép MNCs đến đầu tư trong một phạm vi từ từ mở rộng. Có thể nói đến năm 1975, Nhật mới thực sự mở cửa hoàn toàn thị trường đầu tư cho nước ngoài. Lúc đó Nhật Bản đã là một nước tiên tiến, có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới Trong thời gian hoãn mở cửa này, Nhật đã vạch ra chiến lược và thực hiện một chương trình tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước rất chi Chiến lược này là một trong những nhân tố đem lại thành quả phát triển ngoạn mục của kinh tế Nhật trong thập niên 1960. Hàn Quốc trước năm 1980 cũng hạn chế FDI. Khác với Nhật, hồi ấy tiết kiệm trong nước còn ít nên họ tích cực vay vốn nước ngoài. Vay vốn và du nhập công nghệ theo các kênh khác nhau và công nghiệp hóa bằng M bản xứ. Trong những trường hợp Hàn Quốc cần công nghệ nhưng MNCs không chịu chuyển giao qua kênh hợp đồng mà đòi theo hình thái FDI, Hàn Quốc chấp nhận nhưng cố thương lượng để du nhập FDI theo các điều kiện có lợi nhất cho mình, sau đó họ tìm cách học hỏi bí quyết kinh doanh để dần dần làm chủ dự án FDI. Điển hình là trường hợp Hàn Quốc cần du nhập công nghệ tơ sợi tổng hợp từ Nhật nhưng phải theo hình thái FDI, và họ đã nỗ lực vượt bậc để trong thời gian ngắn làm chủ công nghệ đó và công ti Nhật đã phải dần dần rút vốn Từ thập niên 1980, MNCs không còn là sản phẩm của Mĩ và các nước Tây Âu mà ngày càng xuất hiện tại nhiều nước khác, giữa các MNCs cạnh tranh nhau. Liên Hiệp Quốc cũng đã đưa các quy định chế tài các MNCs có hành động bất chính tại các nước họ đầu tư. Do đó, tại các nước mới phát triển, sự lo ngại bị MNCs chi phối dần dần mất, nhất là từ thập niên 1990 khi hoạt động kinh tế ngày càng diễn ra trên quy mô toàn cầu, các nước đi sau ngày càng thấy rằng FDI là công cụ hữu hiệu vì cùng lúc du nhập cả K, T và M để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, và họ đã cạnh tranh nhau trong việc du nhập FDI. Tuy nhiên, về lâu dài, những nước thành công trong việc thu hút FDI thường có các điểm chung như sau Thứ nhất, FDI phải được đặt trong một chiến lược phát triển kinh tế hoàn chỉnh, trong đó quy định những ngành, những lĩnh vực cần thu hút FDI. Thông thường những ngành doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng đầu tư nhưng xét thấy đó là những ngành có lợi thế so sánh động lợi thế so sánh sẽ có trong tương lai và thị trường thế giới đang lớn mạnh, lãnh đạo phải tích cực tiếp thị để kêu gọi FDI vào những ngành đó và khi MNCs đến đầu tư thì theo dõi, tạo điều kiện để các dự án đó phát triển thành công. Trong dài hạn, lợi thế so sánh động cũng thay đổi và những ngành cần phát triển cũng thay đổi. Do đó, để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, chiến lược thu hút FDI cũng phải thường xuyên thay đổi theo hướng khuyến khích MNCs ngày càng đầu tư vào các ngành có giá trị gia tăng cao hơn, có hàm lượng công nghệ và tri thức nhiều hơn. Thứ hai, khuyến khích, tạo điều kiện để các dự án FDI lập ra theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước vì liên doanh mới tạo điều kiện cho công ti trong nước tiếp cận trực tiếp với T và M của MNCs, và sau này sẽ làm chủ được công nghệ và kinh doanh. Mặt khác, đối với MNCs, việc chọn đối tác để liên doanh rất quan trọng, có tính quyết định đến sự thành bại của dự án đầu tư của họ. Thông thường, MNCs muốn đầu tư 100% vốn của mình để dễ quản lí, dễ nhanh chóng đưa ra các quyết định về kinh doanh, và để giữ các bí mật về công nghệ nếu công nghệ ấy còn trong giai đoạn họ độc chiếm. Trong những dự án đầu tư để sản xuất cho thị trường bản xứ, MNCs có khuynh hướng muốn liên doanh với một công ti trong nước với hi vọng đối tác địa phương sẽ đóng vai trò tiếp thị. Nhưng như đã nói, hình thái liên doanh hay 100% vốn nước ngoài còn tùy thuộc nỗ lực, khả năng thương lượng của quan chức phụ trách thẩm tra các dự án FDI. Nhưng suy cho cùng, điểm mấu chốt của vấn đề là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Nếu nguồn lực kinh doanh của doanh nghiệp trong nước không mạnh thì khả năng lập liên doanh với nước ngoài rất nhỏ. Thứ ba, để công nghệ và tri thức kinh doanh của MNCs lan tỏa từ dự án FDI sang các khu vực khác của nền kinh tế, cần có chính sách thúc đẩy sự liên kết hàng dọc vertical linkages giữa FDI với các công ti trong nước. Nghĩa là phải khuyến khích các dự án FDI tích cực dùng nguyên liệu và các sản phẩm phụ trợ sản xuất trong nước, qua đó MNCs sẽ chuyển giao công nghệ, truyền đạt tri thức, chỉ đạo quản lí để các công ti trong nước cung cấp hàng đủ chất lượng và với giá thành thích đáng. Vấn đề ở đây khác với điều kiện về local contents có tính cách bắt buộc đối với dự án FDI thường thấy thời thập niên 1970 trở về trước. Bây giờ nếu đưa ra điếu kiện đó mà môi trường cung cấp sản phẩm phụ trợ chưa phát triển thì MNCs sẽ chọn nước khác để đầu tư. Do đó, để đồng thời vừa thu hút FDI vừa tăng hiệu quả lan tỏa của FDI đến các khu vực khác của nền kinh tế, chính phủ các nước nhận FDI phải có chính sách phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận vốn và thông tin thị trường, trong việc giảm phí tổn về hành chính, Như vậy, khuyến khích hình thái liên doanh và đẩy mạnh liên kết hàng dọc là hai yếu tố quan trọng để FDI trở thành một bộ phận hữu cơ của cả nền kinh tế. Nếu hai yếu tố ấy không đủ mạnh, nền kinh tế sẽ bị phân hóa thành hai khu vực riêng biệt. Ba điểm nói trên cho thấy việc thu hút FDI là cả một nghệ thuật đòi hỏi người lập chính sách và quản lí FDI phải cố gắng không ngừng, phải quan tâm đến sự phát triển của doanh nghiệp trong nước thì FDI mới có hiệu quả tích cực đối với quá trình phát triển kinh Có thể gọi đó là ba tiêu chí để đánh giá thành quả thu hút FDI của một nước. Từ ba tiêu chí này, có thể nói Thái Lan là một trong những nước thành công trong việc thu hút FDI. Thái Lan lập ra Hội đồng Đầu tư Board of Investment có quyền hạn siêu bộ, đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư đối với cả doanh nghiệp trong và ngoài nước trong một khung pháp lí thống nhất. Họ định ra những ngành cần khuyến khích đầu tư bằng các biện pháp ưu đãi, luôn tranh thủ nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản, để ngày càng chuyển dịch cơ cấu đầu tư lên cao, đồng thời nâng đỡ các doanh nghiệp trong nước. Do đó, doanh nghiệp trong nước cũng tích cực đầu tư vào các ngành được khuyến khích. Chẳng hạn trong tổng tư bản pháp định của các dự án đầu tư được khuyến khích từ đầu năm 1986 đến cuối năm 1995, tư bản Thái Lan chiếm tới 72%, FDI chỉ có 28% theo JETRO Bangkok, 1997. Trong các ngành sản xuất các loại máy móc như đồ điện gia dụng, xe hơi, mặc dù FDI đóng vai trò lớn nhưng doanh nghiệp bản xứ cũng phát triển mạnh, tạo nên sự liên kết hàng dọc giữa hai khu vực này. Vào cuối năm 2007, trong tổng số doanh nghiệp trong các ngành máy móc, tư bản bản xứ có doanh nghiệp, FDI chỉ có 978 doanh nghiệp. Dĩ nhiên các công ti FDI có quy mô lớn hơn nhiều, nhưng số lượng khá lớn của doanh nghiệp bản xứ cho thấy hai loại hình doanh nghiệp cùng phát triển mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Thái Lan phát triển mạnh, cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho doanh nghiệp FDI. 2. FDI tại Việt Nam Nguy cơ phân hóa nền kinh tế Từ giữa thập niên 1990, nhất là từ khi gia nhập WTO đầu năm 2007, FDI ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm gần đây, vốn thực hiện FDI hằng năm khoảng 20 tỉ USD, chiếm trên dưới 20% trong tổng đầu tư xã hội. Tỉ lệ này rất cao, cho thấy sự tùy thuộc vào FDI của Việt Nam rất lớn. Chẳng hạn tại Thái Lan, trong giai đoạn thu hút nhiều FDI 1988- 1993, tỉ lệ tương ứng đó chỉ có 5%. Ngoài ra, tại Việt Nam, những năm gần đây, các doanh nghiệp FDI đã chiếm khoảng 50% sản lượng công nghiệp và tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy FDI có vị trí như vậy nhưng về chất, có thể nói Việt Nam đã không thành công trong chiến lược dùng FDI để phát triển kinh tế. Ta thử đánh giá FDI tại Việt Nam nhìn từ ba tiêu chí của chiến lược thu hút FDI hiệu quả đã bàn ở trên. Thứ nhất, cho đến nay Việt Nam chưa bao giờ lập ra được một chiến lược phát triển công nghiệp năng động, trong đó cả FDI và doanh nghiệp trong nước cùng liên kết làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu lên cao. Từ thập niên 1990, dòng chảy chủ đạo của FDI tại Á châu là các ngành công nghiệp máy móc với giá trị gia tăng cao và nhu cầu trên thị trường thế giới lớn mạnh, như đồ điện gia dụng, ô-tô, máy tính cá nhân, Việt Nam đã nhiều lần có cơ hội đón đầu dòng chảy đó nhưng đã không chủ động về chính sách và sớm cải thiện môi trường đầu tư nên đã bỏ lỡ các cơ hội đó. Trên thực tế, có một số dự án FDI ở Việt Nam trong các lĩnh vực đó nhưng hoạt động không thành công, không trở thành những sản phẩm made in Vietnam trên thị trường thế giới. Tôi đã có dịp phân tích nguyên nhân thất bại của ngành ô-tô tại Việt Do đó, FDI vào Việt Nam nhiều nhưng suốt trong thời gian dài từ khoảng năm 1990 cho đến những năm gần đây chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn như may mặc, giày dép, và trở thành những ngành xuất khẩu chủ đạo. Đó là những lĩnh vực không cần nhiều vốn, không cần công nghệ cao nên đáng lẽ doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư hay ít nhất là liên doanh với nước ngoài trong giai đoạn đầu và sau đó dần dần làm chủ hoàn toàn. Mặt khác, các ngành xuất khẩu ấy phải tùy thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc các sản phẩm trung gian như vải, tơ sợi,... Suốt 20 năm nay, công ti trong nước không có khả năng sản xuất thay thế hàng nhập này. Gần đây, với triển vọng Việt Nam gia nhập Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, quy chế về xuất xứ của sản phẩm xuất khẩu sang Mĩ buộc Việt Nam sẽ phải dùng sản phẩm trung gian sản xuất trong nước. Thế là Trung Quốc bắt đầu tích cực triển khai các dự án FDI tại Việt Nam để đối phó với tình hình mới ấy. Ta có thể đặt câu hỏi tại sao nhà nước đã đưa ra mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 mà bây giờ vẫn phải thu hút FDI trong những ngành không đòi hỏi công nghệ cao như vải, tơ sợi? Doanh nghiệp bản xứ của ta đang ở đâu? Những người làm chính sách ở Việt Nam nghĩ gì về hiện tượng này? Ở đây ta chưa bàn đến những mặt tiêu cực của quá trình thu hút FDI tại Việt Nam, nhất là từ khi có chính sách phân quyền xuống các địa phương. Nhiều chính quyền địa phương hoặc thiếu kiến thức chuyên môn, hoặc không ý thức trách nhiệm với tương lai đất nước, kể cả trường hợp bị công ti nước ngoài mua chuộc, nên đã có nhiều dự án FDI gây ảnh hưởng đến môi trường và an ninh quốc gia. Nhìn chung, quan chức Việt Nam cho đến nay hầu như chỉ xem số lượng như vốn đăng kí, vốn thực hiện là thành quả của chính sách FDI và ít quan tâm đến chất lượng, ít năng động tranh thủ những dự án FDI có hiệu quả cho chiến lược công nghiệp hóa. Từ khoảng năm 2012, cơ cấu FDI mới có thay đổi theo hướng tăng nhiều dự án trong các lĩnh vực mới như máy tính cá nhân, điện thoại di động, nhưng các ngành phụ trợ liên quan chưa phát triển nên sự tham gia của doanh nghiệp trong nước trong các dự án đó còn yếu. Thứ hai, phân tích hình thái FDI, ta thấy hiện nay hầu hết là 100% vốn nước ngoài, liên doanh giữa nước ngoài với công ti trong nước ngày càng ít. Trong thời gian đầu sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, Việt Nam chỉ cho phép FDI theo hình thái liên doanh nên doanh nghiệp nước ngoài không có sự chọn lựa nào khác. Kết cuộc các dự án trong giai đoạn đó phần lớn là liên doanh, phía Việt Nam thật ra chỉ đóng góp vốn bằng tiền cho thuê đất. Khi nhà đầu tư nước ngoài được phép tự lựa chọn hình thức đầu tư thì công ti nước ngoài chọn hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Như Bảng 8-1 cho thấy, tỉ lệ của các dự án FDI 100% vốn nước ngoài chỉ có 38% trong giai đoạn 1993-96 nhưng tăng mạnh sau dó. Tính gộp tất cả các dự án có từ trước và còn đang hoạt động cho thấy gần 80% dự án là 100% vốn nước ngoài nếu chỉ tính các dự án từ năm 2000 dến nay, con số đó còn lớn hơn nữa. Những dự án FDI điển hình và nổi tiếng gần đây cũng theo hình thái 100% vốn nước ngoài. Chẳng hạn Samsung đầu tư với quy mô lớn tại Bắc Ninh và Thái Nguyên nhưng cả hai dự án đều là 100% vốn Hàn Quốc. Nguyên nhân có hiện tượng trên là ở Việt Nam doanh nghiệp tư nhân còn yếu, phần lớn không có khả năng góp vốn và các nguồn lực khác cũng yếu. Doanh nghiệp nhà nước thì tương dối có nhiều vốn và các nguồn lực khác nhưng cũng có ít trường hợp nước ngoài muốn chọn làm đối tác để liên doanh. Theo kết quả phỏng vấn của tôi với nhiều doanh nhân Nhật vào đầu thập niên 2000, lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thường hành động như một quan chức không phải như một nhà doanh nghiệp, ít quan tâm đến sự phát triển của liên doanh và đôi khi cản trở các quyết định về sự phát triển của doanh Thứ ba, cho đến nay hầu như sự liên kết giữa FDI và doanh nghiệp trong nước rất yếu. Muốn liên kết thì doanh nghiệp Việt Nam phải cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đủ chất lượng và với giá cả cạnh tranh được. Nhưng ở Việt Nam bây giờ vẫn còn bàn cãi vấn đề tại sao ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển đủ cho thấy tình hình các doanh nghiệp trong ngành này còn yếu như thế nào. Doanh nghiệp Nhật vẫn còn xem đó là yếu tố làm môi trường đầu tư của Việt Nam kém hấp Nguyên nhân làm ngành công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển có nhiều. Một là doanh nghiệp nhà nước chỉ quan tâm đến những dự án lớn, những ngành hi vọng thu lợi nhuận trong thời gian ngắn như bất động sản, ngân hàng, thương mại. Còn doanh nghiệp nhỏ và vừa thì không tiếp cận được vốn để đầu tư, và chịu nhiều phí tổn tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, tỉ lệ nội địa của các sản phẩm trung gian, của ngành hỗ trợ trong các dự án FDI rất thấp chẳng hạn chì độ 25% trong ngành ô-tô. Ngành xe máy tỉ lệ nội địa khá cao nhưng đó là nhờ các công ti FDI tự sản xuất hoặc kêu gọi các doanh nghiệp nhỏ và vừa từ Nhật và các nước khác đến đầu tư thay vì liên kết với doanh nghiệp bản xứ tại Việt Nam. Chẳng hạn xét trường hợp của Honda Vietnam. Thống kê hơi cũ nhưng cho thấy thực trạng năm 2008 là tỉ lệ nội địa hóa của công ti này đã đạt trên 90% nhưng trong 82 doanh nghiệp cung cấp linh kiện cho họ chỉ có 20 công ti có vốn Việt Nam. Gần đây doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật đầu tư mạnh sang Việt Nam số dự án tăng từ 143 năm 2010 lên 234 và 317 trong các năm 2011 và 2012. Khuynh hướng này giúp phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nhưng cũng cho thấy sự hiện diện của doanh nghiệp Việt Nam bị lu mờ. Các dự án đầu tư lớn của Samsung tại Bắc Ninh và Thái Nguyên cũng đang và sẽ lôi kéo hàng trăm công ti nhỏ và vừa của Hàn Quốc sang để sản xuất linh kiện và các sản phẩm hỗ trợ khác hiện nay họ nhập khẩu từ các cơ sở của Samsung tại Trung Quốc. Đáng bức xúc là không thấy Việt Nam có kế hoạch khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước tích cực tham gia vào thị trường này. Tôi có cảm tưởng là nhà nước nghĩ rằng kéo được Samsung đến đầu tư lớn là đủ để thỏa mãn với chính sách FDI rồi. Chính sách thu hút FDI chỉ chạy theo số lượng, thiếu sự chọn lựa chiến lược làm cho xí nghiệp nước ngoài hiện diện trên nhiều lĩnh vưc của nền kinh tế, kể cả những ngành mà doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư. Có nhiều ngành nhạy cảm về mặt xã hội, văn hóa hay an ninh, nếu doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng đầu tư cũng phải để dành lại chứ không thể mở cửa cho nước ngoài. Trong các dự án FDI, hình thái liên doanh có quá ít và sự liên kết hàng dọc giữa FDI với công ti trong nước quá yếu cho thấy năng lực của doanh nghiệp trong nước rất hạn chế. Nhìn chung có thể nói nội lực của Việt Nam quá yếu nên không tranh thủ ngoại lực một cách có hiệu quả. Nếu tình trạng nói trên không thay đổi, kinh tế Việt Nam sẽ bị phân hóa thành hai khu vực riêng biệt. Khu vực FDI và khu vực của doanh nghiệp bản xứ không kết hợp thành một thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Công nghệ và tri thức kinh doanh của FDI không lan tỏa đến cả nền kinh tế. Việt Nam cần củng cố, tăng cường nội lực mới tận dụng hiệu quả ngoại lực. Cuốn sách Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam ra đời nhân dịp Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và gần 30 năm từ khi có Đổi mới. Sách đánh giá thành quả phát triển trong 40 năm qua, phân tích những thách thức hiện nay và đề khởi đổi mới tư duy và chiến lược cho giai đoạn mới là ba phần chính của cuốn sách. Ngoài ra có chín phụ trang về các vấn đề văn hóa, giáo dục, lịch sử, những khía cạnh có liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhiều nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiều bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Nội dung sách được chia thành 3 phần với các chương cụ thể như sau Phần I Việt Nam 40 năm qua Chương 1 Kinh tế Việt Nam 40 năm qua Chương 2 Thời gian trong kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản 3 Chương 3 Thời gian trong kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc Chương 4 Việt Nam và Trung Quốc Chương 5 Việt Nam trong dòng chảy lao động tại Á châu Chương 6 Từ Tokyo nhìn lại 40 năm Việt Nam Phần II Những thách thức có tính thời đại Chương 7 Nguy cơ chưa giàu đã già Chương 8 FDI và nguy cơ phân hóa kinh tế Việt Nam Chương 9 Thách thức trước sự trỗi dậy của Trung Quốc Chương 10 Bẫy thu nhập trung bình Trường hợp Việt Nam Chương 11 Trào lưu kinh tế Á châu và nguy cơ tụt hậu của Việt Nam Phần III Đổi mới tư duy, tầm nhìn vàchiến lược cho 20 năm tới Chương 12 Chiến lược thoát Trung Chương 13 Dùng ODA như thế nào? Chương 14 Công nghiệp hóa Ai phải là người giàu? Chương 15 Thực hiện giấc mơ thành quốc gia thượng đẳng Chương 16 Ý tưởng cho giai đoạn mới *** Có bao giờ bạn thắc mắc thực trạng nền kinh tế VN trong 40 năm qua, chúng ta đang ở đâu trên bản đồ thế giới; vì sao Nhật bản, Hàn quốc phát triển thần kỳ trong thời gian ngắn; các chính sách nào giúp Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng như hiện nay, mối lo ngại cũng như thách thức trong tương lai của VN là gì; bẫy thu nhập trung bình là gì, làm sao thoát được bẫy thu nhập trung bình; làm sao để đưa VN phát triển nhanh và mạnh xứng đáng với tiềm năng; làm sao để VN trở thành quốc gia thượng đẳng … tất cả các vấn đề trên được Gs Trần Văn Thọ trình bày đầy đủ trong cuốn “Cú sốc thời gian và kinh tế VN”. Sách đạt giải sách hay năm 2016 do Quỹ văn hoá Phan Chu Trinh tài trợ. Nói thêm về gs Trần Văn Thọ. Ông sinh năm 1949 tại Quảng Nam, năm 1967 sang Nhật Bản du học. Ông học cho đến khi lấy được bằng tiến sĩ kinh tế Đại học Hitotsubashi, Tokyo. Từ năm 2000 đến nay, ông làm Giáo sư kinh tế Đại học Waseda Tokyo. Ông từng là thành viên Tổ Tư vấn cải cách kinh tế và hành chính hoặc trong Ban Nghiên cứu chính sách của các thủ tướng Việt Nam như Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải. Tháng 7/2017 ông là một trong 15 thành viên Tổ tư vấn kinh tế của TT Trần Xuân Phúc. Mặc dù đến nay đã sống ở Nhật Bản hơn 40 năm nhưng ông vẫn giữ quốc tịch Việt Nam cho mình. ——————————- Thế kỷ 15-16, ng Châu Âu đã vượt Đại dương đi khám phá những vùng đất mới, sang thế kỷ 18-19, nhờ thành tựu khoa học công nghệ từ cuộc CM công nghiệp lần thứ I&II, đưa một số quốc gia Châu Âu phát triển vượt bậc trở thành nước đế quốc và bắt đầu tìm kiếm thuộc địa ở các khu vực còn lạc hậu. Trong khi TQ, quốc gia có nền văn minh lâu đời nhất thế giới, đóng cửa tự mãn và ru ngủ mặc cho sự phát triển ồ ạt của văn minh nhân loại. Hậu quả là, cuối TK 19 đầu TK 20, thế giới chứng kiến nạn xâm lược thuộc địa Á, Phi, các nước chậm phát triển đều bị các nước phương Tây biến thành thị trường thuộc địa phục vụ chính quốc, ngoại trừ Nhật Bản. Liệu rằng lịch sử có lập lại trong TK 21 với các quốc gia chậm phát triển. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thống nhất đất nước, năm 2015, Gs Trần Văn Thọ cho đời ra cuốn sách “Cú sốc thời gian và kinh tế VN” phân tích và đánh giá sự tương quan về kinh tế giữa VN và một số quốc gia trong cùng khu vực. Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ mất 35 năm phát triển để trở thành nước CN, Trung Quốc từ khi mở cửa 1980 cũng mất 30 năm để thành nền kinh tế thứ 2 thế giới 2010 ngay cả một số nước Đông Nam Á, cùng hoàn cảnh với VN như Thái Lan, Malaysia, Indonesia hiện cũng trở thành nước công nghiệp mới NIC. Vậy đâu là nguyên nhân thành công của các quốc gia này và VN học hỏi từ gì được họ ?. Tác giả cho rằng các yếu tố làm nên thành công đó là Có tư tưởng cởi mở, đặt mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế lên hàng đầu và dồn mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế phát triển; lãnh đạo có tâm và có tầm Hàn Quốc có Park Chung Hee, Kim Da jung, Nhật có Ikeda Hayato, Trung Quốc có Đặng Tiểu Bình, Singapore có Lý Quang Diệu đã quy tụ được tầng lớp trí thức trong và ngoài nước cùng sự đồng thuận của xã hội; biết phát huy tinh thần dân tộc tự cường . Ko bàn về các quốc gia có thể chế chính trị khác VN, ngay cả TQ cũng biết tận dụng thời cơ để phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế TB hàng năm 9-10%, riêng vùng duyên hải là 15% từ 2008 trở lại đây chỉ còn 7% và năm 2010 trở thành nền kinh tế thứ 2 thế giới, 2013 nước có lượng dự trữ ngoại hối cao nhất tg. Vì sao cùng thể chế mà 2 thành tích phát triển, tác giả cho rằng điểm mấu chốt là TQ đã lựa chọn “chủ nghĩa phát triển” chứ ko phải ý thức hệ là mục tiêu phấn đấu. Giới lãnh đạo TQ đã hành động theo phương châm “Lấy thực tiễn là thước đo chân lí” lấy thành quả cải cách làm nền tảng để thuyết phục phe bảo thủ. Ngay từ giai đoạn mở cửa 1980, TQ đã tạo mọi đk để thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI đến sản xuất và chuyển giao công nghệ; sớm thành lập các đặc khu kinh tế từ năm 1980, thành lập 2 đặc khu ở Quảng Đông và Phúc Kiến – tỉnh có số Hoa Kiều đông nhất và ra sức kêu gọi Hoa kiều hồi hương đồ vốn về nước đầu tư đến nay TQ có 05 đặc khu kt … “Chủ nghĩa phát triển” còn áp dụng cho cả chính quyền địa phương, các địa phương phải cạnh tranh nhau phát triển và là điều kiện để lãnh đạo được cất nhắc vị trí cao hơn … Còn VN thì sao ? Theo tác giả VN sau thống nhất đất nước năm 1975 thì 10 năm tiếp đó nóng vội bước lên CNXH, đến 1986 mới chính thức thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần nhưng đến năm 1990 mới có luật doanh nghiệp, nhưng phải đợi đến năm 1999 luật doanh nghiệp mới ra đời, cho phép DNTN đầu tư mọi lĩnh vực mà nhà nước ko cấm. Năm 1990 thì hạn chế vốn đầu tư FDI thì đến năm 2007 sau khi gia nhập WTO thì mở cửa ồ ạt, làm chết nghẹt những DN vừa và nhỏ trong nước; các DN còn lại quá yếu ko kết nối thị phần với các DN nước ngoài tới 80% DN FDI là 100% vốn nước ngoài nên hầu như đến nay VN ko chuyển giao và ứng dụng công nghệ; kinh tế VN phân hóa thành 2 khu vực, khu vực có vốn FDI và khu vực tư nhân. Từ năm 1990 đến năm 2007, VN hội tụ mọi điều kiện để phát triển 10% năm nếu vậy thì đến nay đã trở thành nước có thu nhập TB cao chuẩn bị cho gđ thành nước CN thì tốc độ phát triển chỉ dừng mức khiêm tốn 7%, từ năm 2008 đến nay còn lại trên dưới 6% Nhật, HQ, TQ trong giai đoạn phát triển thần kỳ là 9-10% năm. Sau 40 năm pt, VN vẫn ở top quốc gia có thu nhập trung bình thấp GDP 2016 là USD và nguy cơ bẫy thu nhập TB là khó tránh khỏi. Khoảng cách giữa VN và TQ ngày càng nới rộng, nhập siêu dị thường từ TQ ngày càng tăng; tư bản dân tộc kém phát triển ko đủ sức cạnh tranh ngay cả trong nước, cán cân thương mại nghiêng về nhập siêu, các DN đa phần cần nhiều lao động giản đơn dệt, vải sợi; ng dân thất nghiệp phải xuất khẩu lao động, phụ nữ thì lấy chồng ngoại … gây ra nhiều tệ nạn, tiêu cực làm xấu hình ảnh VN trên trường quốc tế. Những thách thức VN phải đối mặt trong tương lai là ko đạt được chỉ tiêu đề ra trở thành nước CN năm 2020, tụt hậu so với thế giới, nguy cơ chưa-giàu-đã-già từ năm 2020 đến 2025 VN sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, bẫy thu-nhập-trung-bình GDP 2016 là USD và để trở thành nước CN thì GDP phải trên USD và thách thức trước sự trỗi dậy của TQ. Các giải pháp nào cho VN hiện nay, làm sao để VN trở thành quốc gia thượng đẳng ? Tác giả cho rằng Lãnh đạo phải là những ng có tài, có tâm huyết, khát khao đưa đất nước đi lên. Lđ phải là những người bức xúc với tình trạng trì trệ của đất nước, thấy được hình ảnh lao động VN bị đối xử tệ ở nước ngoài. Muốn làm được phải có chiến lược và chính sách trung, dài hạn hợp lý và quyết tâm theo đuổi mục tiêu đó. Phải cải cách, cố làm sao cho chất lượng thể chế phải bằng hoặc hơn TQ mới đuổi kịp họ năm 2016 VN tăng trưởng chỉ còn 6,2%, TQ là 6,7%; thu dụng ng tài, tập hợp mọi nguồn lực trong và ngoài nước để hướng vào mục tiêu phát triển; đổi mới mô hình tăng tưởng, tái cấu trúc nền kt hiện đang triển khai nhưng rất chậm; nhà nước chỉ làm vai trò kiến – tạo – phát – triển, lĩnh vực kinh doanh phải để tư nhân đảm nhiệm; xây dựng nền kttt lành mạnh; sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả và nhanh chóng tốt nghiệp ODA; có chiến lược thu hút vốn FDI ko thu hút những dự án gây ô nhiễm MT, ảnh hưởng an ninh quốc gia, những ngành nghề mà DN trong nước tự chủ được; tạo mọi đk cho tư bản dân tộc phát triển; chú trọng đầu tư cho khoa học, công nghệ; cuối cùng là có chiến lược thoát Trung … Sách dày chỉ có 250 trang, nên có nhiều vấn đề tác giả trình bày một cách vắn tắt, ko đi sâu phân tích nguyên nhân nhưng cũng khái quát thực trạng kt VN, những khó khăn và nguy cơ VN phải đối mặt trong thời gian đến. Thông qua cuốn sách đọc giả cũng cảm nhận được lòng yêu nước của tác giả, bức xúc trước sự trì trệ của đất nước. Gs Thọ dù sống xa quê hương đã lâu nhưng luôn theo dõi tình hình kinh tế nước nhà, khát khao đóng góp công sức, xây dựng VN ngày càng giàu mạnh, có tiếng nói trên nghị trường quốc tế. Thời gian là còn lại là ko còn nhiều, mỗi ng VN phải ý thức được trách nhiệm quốc gia, dân tộc, phải hung đúc khí phách, tinh thần Việt, tích cực hd để xd quê hương giàu đẹp. “Một đất nước muốn trở thành quốc gia thượng đẳng phải bắt đầu tư khí khái, quyết tâm hành động của giới lãnh đạo, từ đó quy tụ nhân tài và đưa ra được quyết tâm nhìn về hướng phát triển, đáp ứng được mơ ước của dân chúng” – trang 177. Mời các bạn đón đọc Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam của tác giả Trần Văn Thọ. CÚ SỐC THỜI GIAN VÀ KINH TẾ VIỆT NAM——Tác giả Trần Văn ThọNXB Tri thứcTái bản lần thứ nhấtBản in 03/ Số hóa tudonald25-10-Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4ULời nói đầuTrong tiếng Việt, tiếng Nhật, và cả tiếng Anh đều có câu "Thời gian không chờ đợi chúng ta”. Thời nay người ta thường cảnh giác nhau hoặc khuyên giới trẻ là thời gian rất quý, đã đi qua thì không bao giờ trở lại nên phải nỗ lực tận dụng thời gian để học tập, làm việc, để không bỏ lỡ cơ hội và đạt mục đích như mong đó là ý nghĩa trong đời thường. Ở cấp quốc gia, yếu tố thời gian còn quan trọng hơn nữa. Lãnh đạo đất nước nếu quyết tâm tiến hành cải cách nhanh chóng để phá bỏ rào cản phát triển, tận dụng cơ hội của thời đại thì trong một thời gian ngắn có thể đưa đất nước lên hàng một quốc gia tầm cỡ, được thế giới nể trọng. Ngược lại, nếu lãnh đạo bị giáo điều ràng buộc, bị lợi ích nhóm thao túng hoặc thiếu khát vọng nhìn thấy tương lai huy hoàng của dân tộc và bỏ lỡ thời cơ thì đất nước tụt hậu trên vũ đài quốc tế. Trong rất nhiều trường hợp, người lãnh đạo khi đang cầm quyền ít khi ý thức được sự nghiệt ngã của thời gian, họ chỉ lo giải quyết những vấn đề trước mắt, kể cả việc dồn nỗ lực vào việc duy trì địa vị hiện tại. Người dân dĩ nhiên cũng chỉ lo cuộc sống hằng ngày và cho tương lai của riêng gia đình mình. Nhưng với những quốc gia ấy, sau vài mươi năm nhìn lại sẽ thấy choáng váng với cú sốc của thời nhìn lịch sử ở châu Á cũng thấy nhiều trường hợp tương phản mà yếu tố thời gian biểu hiện rõ nét. Vào năm 1952, Nhật là nước có thu nhập trung bình thấp, nhưng chỉ 15 năm sau tiến lên nước thu nhập trung bình cao và thêm 13 năm nữa trở thành cường quốc kinh tế. Dĩ nhiên Nhật đã có tích lũy về vốn thể chế, về nguồn nhân lực từ thời Minh Trị nên khi có điều kiện thì phát huy rất nhanh. Nhưng cái điều kiện để các nguồn lực đó phát huy nhanh là nhờ năng lực và khát vọng của lãnh đạo trong giai đoạn mới. Không thiếu trường hợp nhiều nước đã phát triển đến giai đoạn thu nhập trung bình nhưng sau đó trì trệ lâu dài và do đó đã xuất hiện khái niệm "bẫy thu nhập trung bình”. Không phải chỉ có Nhật mà Hàn Quốc và Đài Loan cũng thắng lợi trong cuộc chạy đua với thời gian. Hàn Quốc chỉ mất 16 năm từ 1971 đến 1987 để chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp lên trung bình cao và chỉ mất thêm 10 năm nữa để tiến lên hàng các nước tiên tiến. Đài Loan trở thành nền kinh tế tiên tiến vào năm 1995, chỉ tốn 12 năm kể từ giai đoạn thu nhập trung bình lại, người Philippines chắc chắn phải choáng váng với cú sốc thời gian. Giữa thập niên 1950 thu nhập đầu người của họ cao hơn cả Hàn Quốc nhưng đến năm 1976 mới trở thành nước thu nhập trung bình thấp và từ đó đến nay đã gần 40 năm vẫn ở vị trí đó! Năm 1960 thu nhập đầu người của Philippines cao gấp đôi Thái Lan nhưng 15 năm sau đó Thái theo kịp Philippines và bây giờ thì Philippines chỉ bằng nửa của với các nước đi sau, cơ hội để đốt giai đoạn, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước thường có nhiều. Công nghệ, tri thức kinh doanh, vốn đầu tư, kinh nghiệm phát triển, thị trường, v... đã có sẵn. Nhưng thành công hay thất bại trong việc sử dụng ngoại lực tùy thuộc chất lượng thể chế và bản lãnh, tố chất của lãnh đạo. Chuyển từ thể chế cũ sang thể chế mới thường mất nhiều thời gian nhưng những nước phát triển đã thành công trong việc tiến hành cải cách thể chế trong thời gian ngắn. Những nước thất bại trong cuộc cải cách thể chế sẽ tụt hậu và sẽ chịu một cú sốc thời gian rất đây là trường hợp cú sốc thời gian trước hiện tượng tụt hậu so với các nước chung quanh. Một cú sốc khác ít được nhận diện, diễn tiến âm thầm, chậm rãi nhưng khắc nghiệt vì khi đã thành hiện thực thì hầu như không thể đối phó được nữa. Đó là cú sốc trước hiện tượng chưa giàu đã già do không nỗ lực tận dụng giai đoạn thuận lợi của cơ cấu dân số để phát triển nhanh và do đó không chủ động đối phó trước sự thay đổi của cơ cấu dân số theo hướng lão hóa. Nước nào cũng trải qua giai đoạn dân số vàng tỉ lệ của người thuộc độ tuổi lao động trong tổng dân số tiếp tục tăng trước khi chuyển sang giai đoạn lão hóa. Nếu bỏ lỡ cơ hội phát triển trong giai đoạn dân số vàng để đất nước giàu lên trước khi cơ cấu dân số thay đổi thì chắc chắn sẽ trực diện với bi kịch chưa giàu đã già, và cú sốc thời gian ở phương diện này sẽ rất trầm giờ chuyển qua vấn đề của Việt tư liệu của ECAFE, tiền thân của ESCAP ủy ban Liên Hiệp Quốc về Kinh tế và Xã hội Á châu Thái Bình Dương thì vào năm 1954, thu nhập đầu người của Miền Nam Việt Nam là 117 USD, xấp xỉ Thái Lan và cao hơn Indonesia Thái Lan là 108 USD và Indonesia là 88 USD vào hai năm trước đó. Hiện nay năm 2014 Việt Nam chỉ bằng 1/3 Thái Lan và 1/2 Indonesia, mặc dù hai nước này không phải là những quốc gia phát triển nhanh như Nhật hay Hàn Quốc. Không kể giai đoạn chiến tranh trước 1975, thời gian 40 năm sau khi chiến tranh chấm dứt hoặc 30 năm từ khi đổi mới cũng đủ dài để chuyển Việt Nam thành một quốc gia tầm cỡ trên thế mới đã đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy nghèo và trở thành nước có thu nhập trung bình thấp từ năm 2008. Nhưng so với tiềm năng, kể cả những thời cơ thuận lợi bị bỏ lỡ và so với kinh nghiệm của các nước Đông Á thì tốc độ phát triển của Việt Nam vừa không cao vừa kém hiệu suất. Ngoài ra nền kinh tế hiện nay có những yếu kém như sức cạnh tranh của nền công nghiệp yếu, mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa còn rất xa, ngày càng dựa vào FDI và phụ thuộc nhiều vào kinh tế Trung Nam hiện nay đang ở đâu trên bản đồ kinh tế thế giới? Về dân số, Việt Nam xếp thứ 14. Vào năm 2014, thu nhập GDP đầu người của Việt Nam là 2 USD, xếp thứ 131 trong gần 200 nước lớn nhỏ trên thế giới. Vì dân số tương đối đông nên vị trí của GDP năm 2014 là 186 tỉ USD cao hơn nhưng cũng chỉ ở hạng 53. Quy mô của GDP như vậy không thể có một ảnh hưởng nhất định đến kinh tế thế giới. Tại vùng Đông Áhiện nay, GDP đầu người của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia, Lào và năm 1993, Việt Nam hội đủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi. Nếu quyết tâm cải cách thể chế để củng cố nội lực và tận dụng ngoại lực thì có thể phát triển trung bình mỗi năm 10% suốt 20 năm sau đó. Trong thời gian đó, Trung Quốc phát triển trung bình 10% nhưng riêng vùng duyên hải thì hội đủ các điều kiện thuận lợi nên phát triển rất mạnh mẽ, trên dưới 15% mỗi năm. Việt Nam có bờ biển dài, bề ngang lại hẹp nên hầu như cả nước gần giống vùng duyên hải của Trung Quốc. Dĩ nhiên không phải phát triển với bất cứ giá nào mà phải chú trọng chất lượng phát triển như bảo vệ môi trường, bảo đảm tạo cơ hội bình đẳng cho mọi tầng lớp, nhưng dù chú trọng chất lượng, khả năng phát triển trên dưới 10% không phải là phi hiện thực. Nhật Bản trong giai đoạn 1955-1973 cũng vừa phát triển cao trung bình 10% vừa ít ảnh hưởng đến chất lượng phát đầu thập niên 1990 đến nay, nếu Việt Nam tăng trưởng 10%/năm thì bây giờ đã là nước có thu nhập trung bình cao, chuẩn bị cho giai đoạn trở thành nước công nghiệp phát triển trong tương lai không xa. Thêm vào đó, nếu phát triển với tốc độ đó thì Việt Nam đã sớm chấm dứt được tình trạng phải xuất khẩu lao động, một hiện tượng đang làm xấu hình ảnh của đất nước trên vũ đài thế cơ cấu dân số hiện nay của Việt Nam, cú sốc thời gian cũng sẽ rất mạnh. Giai đoạn dân số vàng sắp qua đi, giai đoạn lão hóa dân số sẽ đến gần kề mà thu nhập đầu người còn rất thấp. Việt Nam đang đứng trước thách thức chưa giàu đã già. Theo nhiều phân tích về cơ cấu dân số, giai đoạn dân số vàng của Việt Nam kéo dài từ năm 1970 đến năm 2020 hoặc 2025. Kết quả phân tích đó không thể không làm ta giật mình với sự tiếc nuối. Nhìn lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn dân số vàng 1970-2020, ta thấy Việt Nam đã đánh mất phần lớn thời cơ phát triển Giai đoạn còn chiến tranh 1970-75 và thời trước Đổi mới 1975-85 xem như ta đã mất hầu như tất cả trong ý nghĩa không tận dụng cơ cấu dân số vàng để phát triển. 10 năm đầu Đổi mới 1986- 95, ngoài việc phục hồi sản xuất nông nghiệp, Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu xây dựng các tiền đề về thể chế kinh tế thị trường, về hội nhập với thế giới. Những năm sau đó, như đã phân tích ở trên, kinh tế tương đối phát triển nhưng chưa mạnh mẽ trung bình mỗi năm cũng chỉ độ 7%, so với 9-10% của nhiều nước Á châu trong giai đoạn dân số vàng.Khi chấm dứt cơ cấu dân số vàng, thu nhập đầu người của Nhật Bản năm 1992 là 30 USD tính theo giá năm 2005, của Hàn Quốc năm 2010 là 20 USD. Còn thu nhập đầu người của Việt Nam vào năm 2025, là bao nhiêu? GDP đầu người hiện nay của Việt Nam độ 2 USD, nếu tính theo giá năm 2005 thì khoảng 1 USD. Nếu từ nay đến năm 2025 dù mỗi năm kinh tế phát triển 8% thì năm 2025 thu nhập đầu người theo giá năm 2005 chỉ độ 2 USD hoặc 3 tùy theo tỉ giá, chỉ bằng 1/10 của Hàn Quốc hay Nhật Bản ở thời điểm tương 2015, Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và sau đó là thống nhất đất nước, bắt đầu một thời đại mới. Năm 2016 kỉ niệm 30 năm đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Lãnh đạo của Việt Nam trong giai đoạn tới cần ý thức sâu sắc cú sốc của thời gian liên quan đến vị trí của đất nước trên vũ đài thế giới và về nguy cơ chưa giàu đã già. Thời gian không còn nhiều. Theo tôi, xuất phát quan trọng nhất, có tính cách quyết định là khát vọng, khí khái của những người lãnh đạo trong giai đoạn sắp tới. Nếu lãnh đạo có lòng tự hào dân tộc, quyết đưa Việt Nam từng bước trở thành quốc gia thượng đẳng, xứng đáng với lịch sử, văn hóa và quy mô dân số sẽ bức xúc với thực trạng đang xuất khẩu lao động, đang tiếp tục nhận viện trợ, bức xúc với sự yếu kém của tư bản dân tộc và phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc. Giải phóng ra khỏi những ý thức hệ giáo điều và đề cao chủ nghĩa phát triển sẽ có những quyết sách, chiến lược phát triển đúng sách này ra đời nhân dịp Việt Nam kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh và gần 30 năm từ khi có Đổi mới. Đánh giá thành quả phát triển trong 40 năm qua, phân tích những thách thức hiện nay và đề khởi đổi mới tư duy và chiến lược cho giai đoạn mới là ba phần chính của cuốn sách. Ngoài ra có chín phụ trang về các vấn đề văn hóa, giáo dục, lịch sử, những khía cạnh có liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của nền kinh nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, v... cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiêu bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Tác giả cảm ơn ban biên tập các báo nói trên. Việc soạn thảo, chỉnh lí nội dung cuốn sách vào giai đoạn cuối thì tác giả có dịp tham gia dự án Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thực hiện và đóng góp bài viết "Việt Nam cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển Đánh giá 30 năm đổi mới và nhìn về tương lai". Tác giả cảm ơn chị Phạm Chi Lan, một trong những chuyên gia phụ trách dự án nói trên, đã có nhã ý yêu cầu tham gia nên tác giả có dịp tổng kết các suy nghĩ về chủ đề chính trong sách này. Ngoài ra, trong mấy năm qua, qua các hội thảo hoặc qua trao đổi riêng, tác giả nhận được rất nhiều ý kiến, nhiều tư liệu và thông tin bổ ích hoặc những khuyến khích quý giá trong quá trình hình thành ý tưởng và phân tích cho nội dung cuôn sách. Không thể kể hết, nhưng có dịp trao đổi nhiều nhất là những anh chị Lê Đăng Doanh, Trần Hữu Dũng, Phan Chánh Dưỡng, Chu Hảo, Phạm Chi Lan, Trần Đức Nguyên, Huỳnh Bửu Sơn, Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên, Trần Trọng Thức, Hà Dương Tường, và Vũ Quang cùng, tác giả cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức, đặc biệt Giám đốc, Tổng Biên tập Chu Hảo, Phó Giám đốcPhần IViệt Nam 40 nămquaCHƯƠNG 1Kinh tế Việt Nam 40 năm quaN ăm nay 2015 kỉ niệm 40 năm ngày chấm dứt chiến tranh, mở ra thời đại thống nhất, phát triển đấtnước. Đây là dịp nhìn lại quãng đường 40 năm, đánh giá thành quả phát triển để rút ra bài học cho giai đoạn phát triển sắp chương khác trong Phần I sẽ đánh giá từ cái nhìn bao quát về nhiều mặt của nền kinh tế và so sánh thành quả của Việt Nam với kinh nghiệm ba nước Đông Á. Chương này chỉ xét tốc độ tăng trưởng và các yếu tố liên quan. Ngoài ra, chương này tập trung bàn về thành quả 30 năm Đổi mới, và chỉ nói sơ lược về giai đoạn 10 năm trước Kinh tế Việt Nam trước Đổi mới 1975-198510 năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khổ. 1Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. 2 Nhưng phải đợi đến đổi mới tháng 12/1986 mới có biến chuyển thực tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước GDP của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. 3 Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1%.Trong lúc kinh tế Việt Nam hầu như đứng yên trong thời gian 10 năm trước đổi mới, kinh tế vùng Đông Á đã bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Dòng thác công nghiệp lan từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan, và các nước ASEAN. Nhật Bản đã chấm dứt giai đoạn phát triển cao độ 10% 1955-1973 nhưng vẫn duy trì tốc độ phát triển trung bình 5- 6%. Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD mệnh danh là những nước hay nền kinh tế công nghiệp mới NICs, NIEs vào năm 1979. 4II. Đánh giá thành quả phát triển từ sau Đổi mớiVào giữa thập niên 1980, khi bắt đầu Đổi mới 1986, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị ảnh hưởng bởi hêệthống kinh tế xã hội chủ nghĩa chi phối nên kém hiệu suất. Như đã nói, với khoảng 70% lao động tham gia sản xuất nông nghiệp nhưng cả nước thiếu ăn, phải nhập khẩu gạo. Công nghiệp cũng yếu và kém hiệu suất. Sản xuất kém, thu nhập thấp nên Việt Nam không thể tiết kiệm. Tỉ lệ đầu tư trên GDP rất thấp năm 1986 là 11,7% và hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ. Tuyệt đại dân số là nghèo, cho đến năm 1990 vẫn còn tới gần 70% dân số sống dưới giới tuyến nghèo theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới - WB.Sau Đổi mới, tình hình đã thay đổi hẳn. Việt Nam xuất khẩu gạo từ năm 198 9, tỉ lệ người ở dưới giới tuyến nghèo poverty line giảm dần, đến năm 2010 chỉ còn 11%, và GDP đầu người theo giá trị thực tế đã tăng 3, lần trong giai đoạn từ 1986 đến 2011. Cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch một bước quan trọng từ nông sang công nghiệp. Tỉ lệ của nông nghiệp trong tổng lao động giảm từ 75% năm 1985 xuống còn khoảng 50% năm 2010. Tỉ lệ hàng công nghiệp trong tổng xuất khẩ u chỉ có khoảng 20% vào cuối thập niên 1980 đã tăng lên 65% trong những năm gần ai phủ nhận được thành quả của Đổi mới. Nhưng so với kinh nghi ệm của các nước Á châu và so với tiềm năng của Việt Nam, kể cả những thời cơ rất thuận lợi đã đến với chúng ta, thành quả phát triển của Việt Nam có thể nói là rất khiêm tốn. Phải phân tích và đánh giá từ góc độ này mới thấy đâu là những vấn đề cốt lõi mà Việt Nam cần phải giải quyết để có thể phát triển nhanh và bền vững trong tương lai. Từ góc độ này, dưới đây thử nêu ra các vấn đề của kinh tế Việt Nam hiện Việt Nam phát triển chưa nhanh và không hiệu suấtNếu khảo sát các chỉ tiêu cứng về vị trí của khu vực công nghiệp trong nền kinh tế thì ta thấy công nghiệp hóa đã tiến triển một bước tỉ lệ của công nghiệp trong GDP, trong lao động có việc làm, trong xuất khẩu đều tăng khá nhanh, và các tỉ lệ tương ứng của nông lâm ngư nghiệp đều giảm. Khuynh hướng này có khả năng sẽ tiếp tục và đến năm 2020, những chỉ tiêu ấy có thể xấp xỉ với mức năm 2000 của nhiều nước đi trước, chẳng hạn như Thái Lan. Nhưng khó có thể nói là lúc đó Việt Nam đã đạt mục tiêu đề ra năm 1996 vì những lí do nêu ra dưới sát nhiều mặt cơ bản của kinh tế Việt Nam hiện nay, như trình độ phát triển không phải đo bằng các tiêu chí cứng như trên, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tính chất của thể chế kinh tế, v... khó có thể hi vọng trong vòng năm, sáu năm nữa sẽ có những thay đổi đột biến để thấy một nền kinh tế Việt Nam hoàn toàn khác và ở một nấc thang phát triển đủ cao để gọi Việt Nam là một nước công nghiệp hiện đại. Như đã nói ở trên, Việt Nam không đưa ra định nghĩa rõ ràng thế nào là nước công nghiệp theo hướng hiện đại nên tùy theo cách giải thích mà đến năm 2020 sẽ có nhiều đánh giá khác nhau về điểm Việt Nam đã dạt mục tiêu đề ra hay đây tôi thử đưa ra định nghĩa của mình, đưa ra các tiêu chí về tính chất của một nước công nghiệp hoặc nước công nghiệp hiện đại. Thật ra khi đã nói nước công nghiệp hoặc công nghiệp phát triển thì đã hàm ý nghĩa hiện đại rồi, vì không có khái niệm về một nước "công nghiệp truyền thống". Chỉ có các ngành công nghiệp truyền thống như tơ tằm, dệt bông, nấu rượu, làm nước mắm, các ngành ở các làng nghề... phát triển trong giai đoạn giao thời chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp hiện đại. Do đó, nói công nghiệp hóa là nói phát triển các ngành công nghiệp hiện đại hoặc áp dụng công nghệ hiện đại vào các ngành công nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, ở đây không cần tranh luận về các khái niệm. Gọi là nước công nghiệp hiện đại cũng được. Theo tôi, một nước công nghiệp hiện đại phải có những yếu tố, những đặc tính sauThứ nhất, đó là một nước có trình độ phát triển khá cao, cụ thể là thu nhập bình quân đầu người phải cao hoặc trên trung bình. Hiện nay theo phân loại của WB, bình quân đầu người từ 1 đến 12 USD là nước có thu nhập trung bình, trên 12 USD là nước thu nhập cao. Do đó, một nước được gọi là công nghiệp phải có trên 12 USD. Việt Nam hiện nay mới khoảng 2 USD Bảng 1, đến năm 2020 có lẽ khoảng từ 3 đến 3 USD tùy theo biến động của tỉ giá. Nhìn từ điểm này, ta thấy mục tiêu năm 2020 là hoàn toàn không đạt hai, về ngoại thương, cơ cấu xuất khẩu phải chuyển từ các ngành có hàm lượng lao động cao sang những ngành có hàm lượng tư bản và công nghệ. Ngoài ra, cán cân ngoại thương cũng phải chuyển hẳn sang xuất siêu và dần dần cán cân thanh toán cũng chuyển sang xuất siêu và như vậy mới có ngoại tệ đầu tư ra nước ngoài như sẽ nói sau. Để được như vậy, nước được gọi là công nghiệp phải có nhiều mặt hàng công nghiệp có hàm lượng tư bản và công nghệ cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới. Nhìn cơ cấu xuất khẩu và cán cân ngoại thương của Việt Nam hiện nay, khó có thể kì vọng đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Bảng 1-2 cho thấy tỉ lệ của các sản phẩm có công nghệ cao như các loại máy móc gần đây tăng nhanh nhờ FDI nhưng chỉ vào khoảng 30%, thấp hơn nhiều so với các nước lân cận. Thêm vào đó, nhập khẩu của Việt Nam trong các ngành này còn lớn hơn xuất khẩu. Chẳng hạn theo Ikebe 2013, về các loại máy công cụ, máy xây dựng, năm 2011 Việt Nam xuất khẩu 4,2 tỉ nhưng nhập khẩu 13,2 tỉ USD. Về các sản phẩm điện, điện tử, nhập khẩu cũng lớn hơn xuất khẩu 12,8 tỉ và 14,4 tỉ USD năm 2011. Tư li ệu của JETRO cho thấy vào năm 2013, trong nhóm hàng công nghiệp thiết bị máy móc và linh kiện, Việt Nam xuất 6 tỉ nhưng nhập tới 18,7 tỉ USD, và trong máy tính và linh kiện thì xuất 10,6 tỉ nhưng nhập 17,7 tỉ ba, một nước được gọi là công nghiệp phát triển phải chuyển từ nước nhập tư bản sang xuất khẩu tư bản, ít nhất là theo tiêu chí xuất khẩu ròng net exporter, nghĩa là có thể vẫn còn nhập tư bản nhưng xuất ra nước ngoài nhiều hơn nhập. Muốn được vậy, Việt Nam phải có nhiều công ti bản xứ đủ mạnh để đầu tư ra nước ngoài FDI và kim ngạch đầu tư hằng năm lớn hơn hoặc tương đương với FDI của nước ngoài tại Việt Nam. Hiện nay, FDI của Việt Nam ra nước ngoài hầu như không đáng kể. Ngược lại, như sẽ thấy dưới đây, FDI của nước ngoài tại Việt Nam hầu hết là 100% vốn ngoại. Do đó, ngay tại nước mình, công ti bản xứ cũng không đủ năng lực để tham gia lập liên doanh với công ti nước ngoài. Làm sao để năm, sáu năm nữa, Việt Nam trở thành một nước đi đầu tư ở nước ngoài nhiều như FDI của nước ngoài tại Việt Nam?Thứ tư, về ODA, một nước được gọi là công nghiệp phát triển sẽ không còn nhận ODA nữa, ngược lại phải trở thành nước đi viện trợ cho nước khác. Hiện nay, ODA nước ngoài đang tiếp tục tăng và lãnh đạo Việt Nam vẫn còn xem việc tranh thủ ODA nhiều hơn là một thành tích. Làm sao để năm, sáu năm nữa Việt Nam hế t nhận viện trợ và trở thành nước cung cấp ODA cho thế giới. Không kể giai đoạn nhận viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu, chỉ kể từ năm 1993, Việt Nam đã nhận viện trợ hơn 20 năm rồi. Hiện nay ODA trên đầu người của Việt Nam đã lên tới 60 USD. Trước đây Hàn Quốc chỉ nhận ODA độ 20 năm và ODA trên đầu người chỉ độ 10 USD. Thái Lan chỉ nhận viện trợ trong 30 năm từ khoảng năm 2000, Thái Lan đã chấm dứt nhận viện trợ và lúc nhiều nhất kim ngạch trên đầu người chỉ độ 15 USD. 83. Những hiện tượng phản ảnh sự yếu kém của nền kinh tếNgoài những vấn đề nêu ở trên, có thể kể thêm một số mặt khác cũng phản ảnh sự yếu kém của nền kinh nhất, công nghiệp Việt Nam bị tác động mạnh từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cơ cấu mậu dịch giữa hai nước có tính chất bắc nam, đó là mậu dịch giữa một nước tiên tiến và một nước chậm phát triển vì Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu và nông lâm thủy sản trong khi nhập chủ yếu là hàng công nghiệp. Gần đây tình hình có cải thiện do một số công ti đa quốc gia đã chuyển nhiều cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, nhưng công nghiệp Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào hàng nhập máy móc, linh kiện từ Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc rất lớn nhưng khác với Thái Lan và nhiều nước ASEAN khác, Việt Nam hầu như không thâm nhập được vào thị trường này. Do đó, Việt Nam tiếp tục nhập siêu với Trung Quốc ở mức cao một cách dị thường. Chương 9 bàn chi tiết hơn về tác động của Trung Quốc đối với Việt hai, công nghiệp Việt Nam phụ thuộc nhiều vào FDI vì tư bản dân tộc quá yếu. FDI trở thành đầu tầu của sản xuất và xuất khẩu công nghiệp Việt Nam. Nhưng với một nước đông dân và nhiều nguồn lực phong phú mà hơn 50% hàng công nghiệp sản xuất và 70% kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào FDI năm 2014 chứng tỏ sự yếu kém của doanh nghiệp trong nước. Thêm vào đó, hầu hết doanh nghiệp FDI là 100% vốn nước ngoài liên doanh giữa nước ngoài với doanh nghiệp trong nước quá ít và sự liên kết giữa FDI với doanh nghiệp trong nước quá yếu củng nói lên sự yếu kém của doanh nghiệp nội địa. Xem thêm Chương 8 về vấn đề ba, 30 năm đổi mới cũng là quá trình Việt Nam phải xuất khẩu ngày càng nhiều lao động sang các nước khác. Việt Nam phát triển chưa đủ mạnh mẽ và không tạo nhiều công ăn việc làm nên nhiều người phải tìm cách ra nước ngoài tìm việc làm. Đó là chưa kể nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài vì lí do kinh tế. Xuất khẩu lao động và kết hôn với người nước ngoài trong những trường hợp miễn cưỡng là kết quả của sự thất bại trong chiến lược phát triển. Chương 5 bàn chi tiết hơn về vấn đề lại, so với thời kì đen tối của 10 năm đầu sau 1975, quá trình đổi mới 30 năm đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước, nhưng thành quả đó tương đối nhỏ nếu so với tiềm năng của Việt Nam, so với kinh nghiệm của các nước Đông Á trong giai đoạn có cùng những đặc tính thuận lợi như Việt Nam trong 30 năm qua như cơ cấu dân số vàng, dễ dàng tiếp thu công nghệ nước ngoài, v.... Những vấn đề nổi cộm ở giai đoạn hiện nay của Việt Nam cũng phản ảnh những mặt yếu kém của quá trình phát triển vừa với đức độ và tinh thần trách nhiệm mà nhiều ngư ời đã biết, Ikeda đã được dư luận, nhất là giới trí thức, đánh giá cao qua những phát biểu về nhiệm vụ của người làm chính trị, về phương châm phát triển đất nước mà ông sẽ thực thi nếu được làm Thủ tướng. Có mấy điểm đáng chú ý. Thứ nhất, ông cho rằng giai đoạn sắp tới phải là thời đại kinh tế, Nhật phải tận dụng tiềm năng về nguồn nhân lực của mình và hoàn cảnh thuận lợi của thế giới để vươn lên hàng các nước tiên tiến. Thứ hai, triết lí chính trị là vì dân, vì cuộc sống của dân chúng nên mục đích cuối cùng của phát triển kinh tế là phải tăng thu nhập của toàn dân và mở rộng mạng an sinh xã hội để giúp người không theo kịp đà phát triển nguyện vọng, quyết tâm của nhà chính trị phải được cụ thể hóa bằng chiến lược, chính sách, trước mắt là được đồng tình của dân chúng, tiếp theo là phải được thực hiện có hiệu quả. Lúc này Ikeda cần đến trí suy nghĩ tìm kiếm một ý tưởng chủ đạo của chiến lược phát triển đất nước, Ikeda đọc được bài viết "Luận về khả năng bội tăng tiền lương" của Giáo sư kinh tế Nakayama Ichiro đăng trên báo Yomiuri. Trong bài viết đó, Nakayama bàn về khả năng cũng như điều kiện để tăng gấp đôi tiền lương thực chất, cải thiện hẳn mức sống của dân gợi ý của Giáo sư Nakayama, Ikeda thai nghén một chiến lược phát triển gọi là "Bội tăng thu nhập quốc dân" và lập ra một nhóm bảy người gồm các trí thức tên tuổi và các quan chức, các cộng sự tài giỏi để triển khai cụ thể chiến lược này. Đặc biệt trong số này có Shimomura Osamu 1910-1989, nhà kinh tế vừa giỏi lí luận vừa hiểu thực tiễn và có năng lực hình thành các chính sách cụ đó ở Nhật đang có tranh luận sôi nổi về hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Ý kiến chủ đạo lúc đó là trong giai đoạn phục hưng hậu chiến vừa qua, kinh tế Nhật phát triển khá cao trung bình độ 8%/năm vì khởi điểm quá thấp, trong giai đoạn tới tốc độ phát triển chỉ có thể bằng mức cao nhất thời tiền chiến độ 4% hoặc hơn một chút 5%.Chủ trương của Shimomura thì khác. Ông cho rằng Nhật đã qua thời hỗn loạn hậu chiến, hiện nay tiết kiệm trong dân đang tăng, đất nước đang mở cửa hội nhập với thế giới nên công nghệ nước ngoài sẽ được du nhập dễ dàng; đó là hai tiền đề để đầu tư tích lũy tư bản. Thời phục hưng hậu chiến phát triển 8% nên thời đại mới ít nhắt phải là 10%. Ngoài giải thích về mặt lí luận, Shimomura còn dẫn chứng bằng các kết quả tính toán chi tiết nên rất có sức thuyết phục. Trợ lí cho Shimomura là hai chuyên viên trẻ, hồi đó chưa có máy tính nên việc tính toán rất mất thì giờ. Trong nhóm bảy người còn có các nhà kinh tế nổi tiếng khác như Inaba Shuzo, Takahashi Kamekichi, và một quan chức tài giỏi là Miyazawa Kiichi sau này cũng làm Thủ tướng. Ikeda trực tiếp tham dự nhiều buổi họp thâu đêm của nhóm dù Shimomura chủ trương phát triển mỗi năm 10% thu nhập quốc dân sẽ gấp đôi trong bảy năm, nhưng để dung hòa với nhiều ý kiến khác, trong kế hoạch được công bố, kinh tế sẽ tăng trưởng độ 7,2% và thu nhập quốc dân tăng gấp đôi trong 10 năm 1960-1970. Được nhóm chuyên viên, trí thức triển khai về mặt lí luận và các chính sách cụ thể, Ikeda tự tin và đã quyết định lấy Chiến lược bội tăng thu nhập quốc dân làm cam kết chính trị trong cuộc tranh cử vào vị trí Chủ tịch đảng. Ikeda thắng cử và trở thành Thủ tướng vào tháng 7 năm nhậm chức Thủ tướng, ngoài bài phát biểu về kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân, Ikeda còn tuyên bố nhiều ý tưởng được sự đồng tình của dân chúng. Chẳng hạn, "Làm chính trị là nâng cao mức sống của dân chúng. Phát triển kinh tế phải trên tiêu chuẩn tăng thu nhập toàn dân, làm c ho mọi người dân cảm nhận thực sự là kinh tế đang phát triển", hoặc "Chính trị mà để người nghèo không được đi học là chính trị tồi".Ikeda bị bệnh và mấ t sớm năm 1965, lúc đương tại chức Thủ tướng. Ông không sống đến hết giai đoạn của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân, nhưng đã chứng kiến những thành tựu bước đầu, cụ thể là ba sự kiện xảy ra trong năm 1964 Tổ chức Olympic Tokyo thành công, khai trương đường sắt cao tốc Shinkansen Tokyo-Osaka và Nhật trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD - một tổ chức của các nước tiên chính trị Ikeda Hayato và nhóm trí thức cộng tác với ông đã biến giấc mơ của mình thành giấc mơ của toàn xã hội. Họ là những người hiểu được nguyện vọng của người dân và quyết chí đáp ứng bằng trí tuệ và tâm huyết của Biến ước mơ thành hiện thực qua các chính sách khơi dậy các nguồn lựcNhư đã nói, cuối thập niên 1950, nhà chính trị Ikeda Hayato thai nghén một ý tưởng về việc đưa nước Nhật vào thời đại phát triển mới, đáp ứng nguyện vọng của đại đa số dân chúng và ông đã lập nhóm nghiên cứu quy tụ các trí thức, các nhà kinh tế tâm huyết và có năng lực để bàn bạc, nghiên cứu việc triển khai ý tưởng đó. Chính Ikeda trực tiếp tham dự nhiều buổi họp thâu đêm của nhóm này. Cuối cùng kết luận của nhóm là hiện nay tiết kiệm trong dân đang tăng, đất nước đang mở cửa hội nhập với thế giới nên công nghệ nước ngoài sẽ được du nhập dễ dàng; đó là hai tiền đề để đầu tư tích lũy tư bản. Đầu tư có hai hiệu quả là vừa tăng tổng cầu vừa tăng khả năng cung cấp sản xuất của nền kinh tế. Do đó, kinh tế Nhật hi vọng sẽ bước vào thời đại bột phát mạnh lõi của kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân từ 1960 đến 1970 là toàn dụng lao động, làm cho dân chúng thấy cuộc sống được cải thiện rõ rệt, và đưa Nhật lên hàng các nước tiến tiến. Phương châm cơ bản là tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tích cực đầu tư. Công việc của Chính phủ chỉ là cố gắng tiết kiệm công quỹ để có thể giảm thuế nhằm kích thích đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng, và bảo đảm an sinh xã hội. Phát triển là công nghiệp hóa, là phát triển ngành dịch vụ nên lao động phải chuyển dần từ nông nghiệp sang các khu vực phi nông. Do đó, Ikeda đã nhấn mạnh phải ra sức giáo dục bậc cao đẳng và hướng nghiệp để quá trình chuyển dịch lao động không bị gián đã thổi vào xã hội một không khí phấn chấn, tin tưởng vào tương lai. Doanh nghiệp tích cực đầu tư, mọi người hăng hái làm việc. Kết quả là kinh tế đã phát triển nhanh, vượt xa kế hoạch rất nhiều như Bảng 2- 1 cho thấy. Bình quân kinh tế phát triển trên 10%, thay vì 7% như kế hoạch, chiến lược bội tăng thu nhập quốc dân đạt được mục tiêu chỉ trong bảy năm, thay vì 10 năm như kế hoạch ban giá thực tế năm 2000, tổng thu nhập quốc dân trên đầu người của Nhật vào năm 1960 là 7 USD, đến năm 1970 tăng lên 16 USD. Mức chi tiêu của một gia đình giới lao động vào năm 1960 trung bình mỗi tháng là 32 yen, đến năm 1970 đã tăng lên 83 yen. Lương tháng của công nhân trong ngành công nghiệp đã tăng từ 23 yen năm 1960 lên 72 yen năm 1970. Trừ đi độ trượt giá mỗi năm vài phần trăm, trên thực chất thu nhập của giới lao động đã tăng gấp đôi hoặc hơn. Ngoài ra, số lao động có việc làm tăng nhiều hơn so với kế hoạch và số giờ làm việc mỗi tháng của giới lao động giảm từ 203 giờ còn 187 giờ. Thập niên 1960 cũng là giai đoạn người Nhật chứng kiến nhà nhà có tủ lạnh, quạt máy, máy giặt, TV,... Cả xuất và nhập khẩu đều tăng nhiều hơn kế hoạch nhưng đặc biệt là Nhật chuyển sang xuất siêu từ năm 1967 mặc dù kế hoạch dự tính vẫn còn nhập siêu trong năm 1970 xem Bảng 2-1.Tại sao kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân thành công ngoài dự kiến? Một là bản lãnh, tầm nhìn chiến lược về dân tộc về đất nước của lãnh đạo, từ đó có khả năng quy tụ người tài chung quanh mình trong việc hoạch định chiến lược, chính sách cụ thể. Hai là đội ngũ quan chức có năng lực và thanh liêm, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước. Do 2 yếu tố cơ bản này ta thấy họ đã đưa ra nhiều chính sách rất thiết thực và thực hiện các chính sách rất có hiệu quả. Đơn cử vài thí dụThứ nhất, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, yểm trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng chính sách tín dụng, thủ tục hành chính đơn giản, hầu như không có tham nhũng nên đầu tư tăng rất nhanh. Tỉ lệ đầu tư trên GDP tăng từ 20% năm 1955 lên 30% năm 1960 và 35% năm 1970. Trong tổng đầu tư có tới 75% là đầu tư của doanh nghiệp tư nhân. Những công ti tư nhân nổi tiếng sau này như Honda, Sony, Toyota, v... đều lớn mạnh trong giai đoạn này. Doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn đầu tư dễ dàng, thậm chí những doanh nghiệp có số lao động dưới 20 người vẫn dựa chủ yếu vào vốn vay ở các ngân hàng và cơ quan tín dụng hiện đại xem Bảng 2-2.về một số ngành cụ thể được chọn lựa, công cụ chính sách là các kế hoạch, luật hoặc pháp lệnh lâm thời, chỉ có hiệu lực trong thời gian ngắn thường là năm năm. Chẳng hạn Chính sách nuôi dưỡng ngành hóa dầu 1955, Luật lâm thời chấn hưng công nghiệp máy móc 1956, công nghiệp điện tử 1957, Luật về phát triển các ngành cơ khí 1957 để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Chính sách hỗ trợ có thời hạn rất quan chính sách cho một số ngành công nghiệp cụ thể, còn có nhiều chính sách chung cho các ngành nhằm tạo môi trường, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp cách tân công nghệ, đầu tư vào những lĩnh vực mới, hoặc tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs tiếp cận với vốn, với công nghệ, lập quỹ cho SMEs vay 1953.Như vậy, lãnh đạo chính trị kết hợp với trí tuệ của giới trí thức đã đưa ra được tầm nhìn và chiến lược phát triển phù hợp với nguyện vọng của dân chúng. Tầm nhìn và chiến lược đó được đội ngũ quan chức tâm huyết và tài năng triển khai thành các chính sách cụ thể và thực hiện có hiệu quả. Với tiền đề đó, những nhà doanh nghiệp, động lực trực tiếp của quá trình phát triển, đã phát huy được tinh thần doanh nghiệp, hăng hái đầu tư vào những lĩnh vực mới để ngày càng cung cấp ra thị trường thế giới nhiều hàng công nghiệp làm nên thương hiệu made-in-Japan phần phụ trang tiếp theo dưới đây giới thiệu một trường hợp tiêu biểu của tinh thần doanh nghiệp đó. Do đó, Nhật Bản đã thực hiện được thời đại phát triển thần trang ChươngToyota trỗi dậy nhờ tinh thần doanh nghiệp của Toyoda EijiBáo chí và các đài truyền hình Nhật Bản đồng loạt đưa tin lớn và bình luận về Toyoda Eiji 1913-2013, nguyên Tổng Giám đốc Toyota, sau khi ông mất vào sáng ngày 17 tháng 9 năm 2013, vừa tròn 100 tuổi. Là công ti tư nhân nhưng với thanh danh và ảnh hưởng trên thế giới, Toyota đã thành tài sản, là niềm tự hào của cả xã hội Nhật nên dư luận quan tâm đến một người từng lãnh đạo công ti đó trong thời gian dài là hiện tượng tự nhiên. Nhưng ngoài yếu tố đó, Toyoda Eiji đáng chú ý ở vai trò đặc biệt đã đưa Toyota từ một công ti tương đối nhỏ và gặp nhiều khó khăn trở thành xí nghiệp đa quốc gia hàng đầu thế giới ngày nay. Do đó mà nhiều báo đưa tin trong dịp này đã gọi Toyoda Eiji là "ông tổ thời trung hưng Toyota".Có thể nói Toyoda Eiji thành công là nhờ đã phát huy cao độ tinh thần doanh nghiệp enterpreneurship, tố chất quan trọng nhất của nhà kinh doanh. Tinh thần doanh nghiệp đã được Toyoda thể hiện như thế nào trong các tình huống cụ thể?Một lãnh đạo công ti được xem là người có tinh thần doanh nghiệp nếu có các đặc tính sau trước hết, đó là nỗ lực tìm kiếm và áp dụng cái mới, tinh thần luôn đổi mới để khám phá và sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, sản xuất bằng phương pháp mới, tìm kiếm thị trường mới. Các hoạt động này được gọi chung là cách tân công nghệ innovation. Đôi khi nhà doanh nghiệp biết biến những nghịch cảnh, những thách thức trên thị trường hay trong xã hội thành động lực để khám phá công nghệ mới, tạo ra sản phẩm hai là thái độ tích cực đầu tư, tinh thần mạo hiểm, sẵn sàng chịu đựng rủi ro. Thương trường vốn nhiều rủi ro, bất trắc, nhưng nếu không mạo hiểm thì không thể thành công. Tất nhiên, mạo hiểm không có nghĩa là làm liều, không tính toán. Phải có trí tuệ, có óc nhìn xa trông rộng về tương lai và dựa trên những phân tích có căn cứ mới tránh hoặc giảm rủi ro. Phát huy trí tuệ, tận dụng năng lực của nhân viên, công nhân trong công ti cũng là biện pháp khám phá ra cái mới và tránh hoặc giảm các rủi ba, ý thức mưu tìm lợi nhuận profit seeking, chứ không phải mưu tìm đặc lợi rent seeking cũng là yếu tố quan trọng tạo nên tinh thần doanh nghiệp. Mưu tìm đặc lợi là lợi dụng cơ chế xin cho để mua chuộc những người có chức có quyền, qua đó kiếm được những cái lợi lớn mà không mất nhiều công sức trong kinh doanh. Người có tinh thần doanh nghiệp chỉ mưu tìm lợi nhuận chân chính và do đó hàm chứa tính chất cao thượng trong hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận chân chính là thành quả của nỗ lực khám phá công nghệ, khám phá thị trường cho những sản phẩm mới, hoặc cải tiến quản lí, khám phá phương pháp sản xuất mới để giảm giá thành sản phẩm, mở rộng thị phần. Người có tinh thần doanh nghiệp không màng đến cái lợi trước mắt, có hoài bão, lí tưởng, quyết đem tài năng của mình góp phần biến cải xã hội, thay đổi được cuộc sống của mọi người. Khi đã thành công trong kinh doanh, nhà doanh nghiệp chân chính lại dùng một phần lợi nhuận vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục, hay từ tư, một khi kinh doanh mang đủ các yếu tố trên, nhất là yếu tố thứ ba, thì đồng thời nó thể hiện rõ tính chất đạo đức trong kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, đạo đức kinh doanh là kết quả tổng hợp của ba yếu tố kể trên. Người có tinh thần doanh nghiệp do vậy được xã hội kính nể, công ti của họ được xã hội ngưỡng mộ, tin cậy và nhiều khi được xem là tài sản chung của cả xã Eiji hội đủ tất cả các yếu tố của tinh thần doanh nghiệp. Năm 1936, sau khi tốt nghiệp khoa cơ khí trường Đại học Tokyo, Eiji vào làm việc trong công ti Toyoda Jido-Shokki. Năm 1937, bộ phận ô-tô của công ti này tách ra thành công ti độc lập và là tiền thân của Toyota ngày nay. Theo yêu cầu của Tổng giám đốc công ti mới là Toyoda Kiichiro chú ruột của Eiji và là ông nội của Toyoda Akio, Tổng Giám đốc Toyota hiện nay, Eiji đã theo chú sang công ti mới. Từ đó, với kiến thức cơ bản ngành cơ khí có từ thời đại học, kinh nghiệm thực tập tại công ti Ford ở Mĩ năm 1950 và khảo sát thực tiễn ở hiện trường sản xuất của Toyota, Eiji trở thành cánh tay đắc lực của Kiichi trong việc nghiên cứu và triển khai công nghệ để sản xuất xe nội khi kinh qua các chức vụ như thành viên ban giám đốc và Phó Tổng giám đốc, vào năm 1967, Eiji được bầu làm Tổng Giám đốc, từ đó Toyota bước vào một kỉ nguyên mới, một kỉ nguyên phát triển vượt bậc. Năm 1967 sản lượng ô-tô của Toyota là 83 vạn chiếc. Đến năm 1982, khi Eiji thôi chức Tổng Giám đốc và trở thành Chủ tịch công ti thì sản lượng đã tăng lên 328 vạn chiếc. Mười năm sau, khi Eiji rút lui khỏi các chức vụ có trách nhiệm trong kinh doanh và trở thành cố vấn công ti, thì sản lượng lên tới 470 vạn chiếc. Như vậy trong 25 năm Eiji làm Tổng Giám đốc và Chủ tịch, sản lượng ô-tô sản xuất của Toyota tăng gần sáu lần. Nhưng quan trọng hơn, trong thời gian đó, Eiji đã xác lập triết lí, phương châm kinh doanh và phương thức sản xuât độc đáo trở thành nền móng để Toyota tiếp tực phát triển mạnh hơn ở giai đoạn thần doanh nghiệp của Toyoda Eiji thể hiện ở một số tình huống cụ thể sauThứ nhất, tìm cách biến nghịch cảnh thành cơ hội. Năm 1964, Nhật Bản gia nhập Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế OECD, theo đó phải từng bước cho các công ti đa quốc gia vào đầu tư. Nhiều công ti trong nước lo ngại không cạnh tranh được vì mình còn nhỏ yếu. Nhưng Eiji cho rằng Nhật Bản đã bước vào thời đại cạnh tranh với thế giới nên chỉ còn cách là phải phấn đấu khám phá công nghệ, cải tiến quản lí, cải thiện phương pháp sản xuất để thắng lợi trong thời đại này. Và Toyota đã thành công. Ngoài ra, trong thập niên 1970, khí thải từ ô-tô trở thành vấn đề xã hội và bị dư luận phê phán. Eiji đã biến thách thức đó thành cơ hội, đã khai thác công nghệ ứng phó với môi trường và sản xuất các loại xe tiết kiệm nhiên liệu. Kết quả là xe hơi tiết kiệm nhiên liệu ấy trở thành sản phẩm cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới sau hai cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu làm cho ô-tô của Mĩ mất sức cạnh hai, Eiji là người xác lập "phương thức sản xuất Toyota", thường được gọi là “just-in-time”, nghĩa là sản xuất đúng thời hạn và đúng lượng những gì cần. Phương thức này tiết kiệm được phí tổn tồn kho và quan lí chất lượng từ những khâu trung gian trong quá trình sản xuất. Cùng trong nỗ lực xác lập phương thức này, Eiji chủ trương phải phát huy sáng kiến, ý tưởng của từng nhân viên trong công ti, từng người lao động ở hiện trường công xưởng. Ngay cả từ khi trở thành Tổng Giám đốc, ông cũng thường xuống hiện trường khảo sát và hỏi chuyện nhân viên, lao ba, với ý muốn đóng góp cho xã hội, vào năm 1974, lúc đang làm Tổng Giám đốc, Toyoda Eiji đã lập Quỹ Toyota Toyota Foundation, với quỹ ban đầu là 10 tỉ yen, nhằm tài trợ các hoạt động hoặc nghiên cứu văn hóa, xã hội, giáo dục, v... Eiji là Giám đốc và Chủ tịch của Toyota Foundation từ lúc thành lập cho đến năm 1998 từ đó đến khi mất là Chủ tịch danh dự. Trong thời gian lãnh đạo quỹ này, ông đã xác lập mục tiêu, phương châm hoạt động của một tổ chức vô vụ lợi do một công ti sáng lập và tài trợ. Chẳng hạn những câu nói của ông luôn được những người kế tục nhắc lại là "Công ti Toyota được lớn mạnh như hiện nay là nhờ ân huệ của môi trường xã hội, do đó điều quan trọng là công ti phải đền đáp ân huệ đó đối với xã hội", "vì là trả ơn cho xã hội nên hoạt động của tài đoàn không được kêu gọi xã hội phải có gì đền đáp lại cho công ti"; "Quỹ phải hoạt động cho xã hội, không được hoạt động vì lợi ích của công ti".Cá nhân tôi có hai kỉ niệm đối với Toyoda Eiji. Năm 1981, tôi đang làm việc cho một công ti tư vấn tại Tokyo, chuyên nghiên cứu về kinh tế Nhật và cung cấp kết quả cho các công ti, các ngân hàng Âu Mĩ để họ tham khảo trong việc hoạch định chính sách buôn bán và đầu tư tại thị trường Nhật. Lúc đó, một công ti xe hơi của Mĩ đã yêu cầu chúng tôi nghiên cứu chiến lược sắp tới của Toyoda Eiji. Dự án này không thành vì sau đó công ti xe hơi của Mĩ đã nhờ một công ti tư vấn khác nghiên cứu đề tài ấy. Như đã nói ở trên, đầu thập niên 1980 là thời điểm ô-tô của Nhật cạnh tranh rất mạnh trên thị trường Âu Mĩ. Ý định nghiên cứu của công ti ô-tô Mĩ cho thấy nhân vật trung tâm của bản đồ ô-tô thế giới lúc đó là Toyoda nghiệm thứ hai của tôi là vào năm 1985 được Toyota Foundation tài trợ cho dự án nghiên cứu về sự chuyển giao công nghệ trong dòng thác công nghiệp tại Đông Á lúc đó tôi đã chuyển công việc từ công ti tư vấn sang một viện nghiên cứu kinh tế. Toyoda Eiji lúc đó là Giám đốc quỹ đã đến phát biểu trong buổi lễ và trực tiếp trao quyết định tài trợ cho những người thành công trong cuộc cạnh tranh xin tài trợ cho các dự án nghiên cứu và các hoạt động xã hội. Lúc đó Toyoda Eiji đã gần 75 tuổi nhưng trông rất khỏe mạnh, hoạt xây dựng thành công một đất nước có nền công nghiệp hiện đại phải cần những người có tinh thần doanh nghiệp như Toyoda ba, nhận xét của Amsden 1989 rất chính xác khi cho rằng Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập industrialization on the basis of learning. Quả đúng như vậy nếu ta xem nỗ lực của chính phủ trong giáo dục, đào tạo, trong việc tạo ra cơ chế để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ, và nỗ lực của doanh nghiệp trong quá trình học hỏi nước ngoài. Tỉ trọng dành cho giáo dục vào cuối thập niên 1950 chỉ có dưới 10% ngân sách nhà nước, nhưng đã tăng liên tục lên 15-18% trong thập niên 1960, và 19- 21% trong đầu thập niên 1980. Tỉ lệ học sinh cấp ba trong độ tuổi thanh thiếu niên tăng từ 34% năm 196 5 lên 56% năm 1975 và 91% năm 1984. Tỉ lệ sinh viên đại học trong thời gian đó là 6%, 10% và 26%. Hàn Quốc là một trong những nước có tỉ lệ rất cao trong hai chỉ tiêu tỉ lệ của sinh viên du học trên tổng số sinh viên trong nước và tỉ lệ người du học trở về trên tổng số sinh viên di du học. Thành quả này có được là nhờ có các cơ chế liên quan đến việc thi tuyển và đãi ngộ người nỗ lực học tập, một điểm gây ấn tượng nữa là Hàn Quốc không ngừng tăng cường hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ R&D. Tỉ lệ của chi tiêu R&D trên GDP đã tăng liên tục từ 1% vào đầu thập niên 1980 lên đến khoảng 2,5% vào năm 2000 và 3,4% năm 2007. Trong nỗ lực này, trong giai đoạn từ thập niên 1980 trở về trước, nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sau đó doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chính tuy ngân sách của nhà nước vẫn tăng liên tục. 17Ba điểm nói trên nhất quán trong suốt quá trình đuổi theo các nước tiên tiến nhưng nội dung của các cơ chế thay đổi theo nhu cầu phát triển của mỗi thời kì. Từ đầu thập niên 1980, vai trò của nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực nhỏ dần và thay vào đó tập trung vào giáo dục, nghiên cứu khoa học để tạo tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên thứ nguyên cao Quốc cũng bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Á châu nhưng đã khắc phục được ngay GDP đầu người chỉ giảm năm 1998 nhờ nền tảng cơ bản của nền kinh tế vững chắc và nhờ quyết tâm với tinh thần trách nhiệm cao của người đứng đầu nhà nước lúc đó là Tổng thống Kim Dae-jung, cộng với năng lực và tinh thần hách nhiệm của quan chức. Nhân dịp Việt Nam bàn nhiều về việc phải tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, vào tháng 6 năm 2012, tôi đã viết về kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc trong nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng tiền tệ 1997-98 Bài này được đưa vào phần 2 dưới đây. Như sẽ thấy dưới đây, trách nhiệm người lãnh đạo là yếu tố quan trọng nhất. Ấn tượng nhất là mới vừa đắc cử, ông Kim Dae-jung đã khởi động nhanh nhiều biện pháp tái cấu trúc trước cả lễ nhậm chức tổng Tố chất của lãnh đạo chính trị khi đất nước khó khănTái cấu trúc kinh tế Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu thập niên 1990, Hàn Quốc thực hiện một chương trình tái cấu trúc nền kinh tế và đã thành công trongmột thời gian ngắn. Tình trạng kinh tế Hàn Quốc trước khi thực hiện chương trình này cũng giống Việt Nam hiện nay các tập đoàn lớn chi phối kinh tế và kết nối với hệ thống ngân hàng, đầu tư tràn lan, nợ chồng chất và gây ra khủng hoảng nên mục tiêu và nội dung tái cấu trúc cũng rất giống với đề án tái cấu trúc của Việt Nam bây giờ. Điều kiện thành công của Hàn Quốc là gì?Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát triển nhanh từ giữa thập niên 1960. Ảnh hưởng tư tưởng phát triển trên thế giới thời ấy, nhà nước đã đóng vai trò chủ đạo trong việc phân phối các nguồn lực đồng thời khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế với hi vọng sớm cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Nhà nước và các tập đoàn này đã thành công trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu. Chưa đầy hai thập niên, Hàn Quốc đã trở thành nước công nghiệp mới và tiếp tục phát triển thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào đầu thập niên lược này phát huy tác dụng trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng đã mất hiệu lực, không thích hợp với giai đoạn phát triển mới trong đó phải chuyển từ vai trò chủ đạo của nhà nước sang cơ chế thị trường và phải xác lập thể chế quản trị hiện đại cho hoạt động của doanh năm 1960 đến 1995, Hàn Quốc phát triển trung bình 8,4%/năm, nhưng sang năm 1996 còn 6,8% và tiếp tục giảm xuống 5% năm 1997. Nhưng kinh tế giảm tốc không phải do ảnh hưởng nhất thời của kinh tế thế giới hay yếu tố tuần hoàn trong hoạt động đầu tư mà do yếu tố cơ cấu, yếu tố thể chế kinh tế. Do quan hệ mật thiết với ngân hàng, các tập đoàn kinh tế tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn nên đầu tư tràn lan sang nhiều lĩnh vực, kết cuộc thua lỗ và nợ tồn đọng không trả được. Hậu quả trực tiếp đến nền kinh tế là năng lực cạnh tranh suy yếu, nhập siêu trong cán cân thanh toán tăng mạnh, dự trữ ngoại tệ giảm, dư nợ nước ngoài tăng từ 44 tỉ USD năm 1993 lên 98 tỉ, rồi 128 tỉ, 164 tỉ, 159 tỉ trong bốn năm sau đó. Đặc biệt trong đó tỉ lệ nợ ngắn hạn lên tới gần 70%. Các tập đoàn lại dùng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn nên khi sản phẩm không bán được trên thị trường thì rơi vào tình trạng không trả nợ năm 1997, ngân hàng trong nước không còn khả năng cho vay vì nợ đáo hạn không trả được tăng quá nhanh. Vay thêm nước ngoài cũng không được, ngược lại ngân hàng nước ngoài còn đòi Hàn Quốc phải trả các khoản nợ ngắn hạn. Trong tình hình đó, từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1997, có đến sáu trong tổng số 3 0 tập đoàn liên tiếp phá sản. Đặc biệt trong đó có Kia là tập đoàn lớn thứ bảy và là tập đoàn nổi tiếng thế giới, phá sản vào tháng 7, gây ấn tượng mạnh trên thị trường tài chính thế giới. Doanh nghiệp Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng thanh khoản cả nội tệ và ngoại tệ. Tỉ giá đồng won cũng giảm mạnh từ tháng 8 năm 1997. Kết cuộc, tháng 11 năm 1997, Hàn Quốc phải cầu viện Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF cho vay 19,5 tỉ USD tương đương kim ngạch dự trữ ngoại tệ vào cuối năm 1997.Hàn Quốc vào thời điểm đó đã trả hết nợ ODA đối với nước ngoài chỉ còn vay thương mại và trở thành nước cấp ODA cho nước khác, bây giờ lại phải cầu viện IMF, chịu các điều kiện về vận hành chính sách kinh tế do IMF áp đặt. Đối với Hàn Quốc, một nước có tinh thần dân tộc cao, đây là một sỉ nhục. Và họ đã quyết tâm cải cách để kinh tế hồi phục, hoàn trả IMF trong thời gian ngắn và tạo điều kiện để phát triển thành nước tiên tiến. Người được dân chúng ủy thác trọng trách này là Kim Dae-jung, Tổng thống mới được bầu vào tháng 12 năm thống Kim hành động ngay. Ông khởi động nhanh nhiều bi Tags cú sốc thời gian và kinh tế việt nam ebook pdf nxb tri thức 2016 trần văn thọ Nhiều nội dung trong cuốn sách là những bài viết đã đăng trên các báo ở trong và ngoài nước trong vài năm qua, trong đó nhiều nhất là những bài trên Thời báo kinh tế Saigon. Phần lớn nội dung của Lời nói đầu này cũng đã đăng trên số báo Tết Bính Thân phát hành giữa tháng 1/2016 của tạp chí này. Ngoài ra, Vietnamnet, Tuổi Trẻ, Doanh nhân Saigon cuối tuần, Diễn Đàn, Thời đại mới, Đà Nẵng, cũng là xuất xứ của nhiều chương và phụ trang trong sách này. Tuy dùng nhiều bài đã đăng nhưng lần này tác giả đã bổ sung, làm mới tư liệu và sửa chữa những chỗ chưa chính xác. Tác giả cảm ơn ban biên tập các báo nói trên. Việc soạn thảo, chỉnh lí nội dung cuốn sách vào giai đoạn cuối thì tác giả có dịp tham gia dự án Báo cáo Việt Nam 2035 do Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam thực hiện và đóng góp bài viết “Việt Nam cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển Đánh giá 30 năm đổi mới và nhìn về tương lai”. Tác giả cảm ơn chị Phạm Chi Lan, một trong những chuyên gia phụ trách dự án nói trên, đã có nhã ý yêu cầu tham gia nên tác giả có dịp tổng kết các suy nghĩ về chủ đề chính trong sách này. Ngoài ra, trong mấy năm qua, qua các hội thảo hoặc qua trao đổi riêng, tác giả nhận được rất nhiều ý kiến, nhiều tư liệu và thông tin bổ ích hoặc những khuyến khích quý giá trong quá trình hình thành ý tưởng và phân tích cho nội dung cuốn sách. Không thể kể hết, nhưng có dịp trao đổi nhiều nhất là những anh chị Lê Đăng Doanh, Trần Hữu Dũng, Phan Chánh Dưỡng, Chu Hảo, Phạm Chi Lan, Trần Đức Nguyên, Huỳnh Bửu Sơn, Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên, Trần Trọng Thức, Hà Dương Tường, và Vũ Quang Việt. Cú Sốc Thời Gian Và Kinh Tế Việt Nam NXB Tri Thức 2016 Trần Văn Thọ 244 Trang File MOBI Link download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Vay Vốn Ngân Hàng-Từ Lý Thuyết Đến Thực Tiễn NXB Thống Kê 2000 - Nguyễn Văn Hà, 515 Trang22/04/2022 Kinh Tế Và Chính Trị Thế Giới-Vấn Đề Và Xu Hướng Tiến Triển NXB Lao Động 2008 - Lưu Ngọc Trịnh02/05/2023 Áp Dụng Chính Sách Lạm Phát Mục Tiêu-Lý Luận Và Thực Tiễn - Tô Thị Ánh Dương, 207 Trang21/01/2021 Quản Lý Thành Công Trong Thời Đại Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu NXB Chính Trị 2009 - Trần Xuân Kiên15/09/2022 Chiến Lược Dữ Liệu NXB Tổng Hợp 2019 - Bernard Marr, 273 Trang14/06/2017 Dầu Mỏ, Tiền Bạc Và Quyền Lực NXB Thế Giới 2018 - Daniel Yergin, 1269 Trang15/04/2021 Nhập Môn Kinh Tế Học NXB Khoa Học Kỹ Thuật 2013 - BPP Learning Media, 266 Trang30/10/2017 Lý Thuyết Trò Chơi Và Ứng Dụng Trong Quản Trị-Kinh Doanh NXB Thanh Niên 2016 - Lê Hồng Nhật20/06/2017 Nhập Môn Xibecnetic Kinh Tế NXB Lao Động 1994 - Nguyễn Cao Văn, 168 Trang01/06/2022 Tư Duy Kinh Tế Việt Nam 1975-1989 NXB Tri Thức 2013 - Đặng Phong, 462 Trang16/01/2022 Kinh Tế Học Vĩ Mô Cơ Bản-Câu Hỏi Và Bài Tập Chọn Lọc - Nguyễn Thị Thùy Vinh, 173 Trang07/12/2022 Việt Nam Sau Một Năm Gia Nhập WTO Tăng Trưởng Và Việc Làm NXB Chính Trị 2009 - Jean-Piere Cling15/09/2022 Lịch Sử Với Những Bài Học NXB Tri Thức 2008 - Kornal János, 258 Trang02/12/2015 Thay Đổi Trong Điều Hành Chính Sách Vĩ Mô NXB Thế Giới 2014 - Lưu Dực Huy, 14 Trang18/05/2013 Thực Khách Hay Thực Đơn NXB Trẻ 2017 - S Jayakumar, 252 Trang11/06/2013 Last edited by a moderator Dec 14, 2020 Share This Page Forums Forums Members Members Menu

cú sốc thời gian và kinh tế việt nam